Là một vị Tông sư nhưng Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn đã sản sinh ra hai người đồ đệ mang hai khuynh hướng Thiền Tiệm và Đốn nghịch nhau trên mặt hành trì tu tập; nhưng trong pháp tu thường ngày Ngài dạy cho các đệ tử xuất gia cũng như tại gia của mình tu tập theo Kinh Kim Cương. Nếu chúng ta căn cứ vào nội dung tư tưởng ý nghĩa của bộ kinh này thì, rõ ràng là nó mang đậm Không lý Tánh không của pháp tu đốn giáo chứ không thể là của Tiệm giáo được? Hơn nữa nội dung tư tưởng Kinh Kim Cương như chúng ta thấy chúng rất phù hợp với phương pháp an tâm của Sơ Tổ thứ nhất Thiền Trung Hoa là Bồ-đề Đạt-ma qua công án hỏi đáp giữa Tổ và ngài Thần Quang Tổ thứ hai thuộc truyền thống này thì, một hôm Thần Quang đến hỏi Bồ-đề Đạt-ma:
“Tâm con chưa an, xin Thầy an cho!”
Sư bảo rằng:
“Đem tâm lại đây ta an cho!”
Thần Quang thưa:
“Tìm tâm không thể được!”
Sư đáp:
“Ta đã an tâm cho ngươi rồi.”
[1]
Đó chính là mẫu đối thoại giữa Thầy trò Bồ-đề Đạt-ma nói lên rõ tư tưởng an tâm không khác gì với phương pháp trụ tâm và hàng phục kỳ tâm của hành giả khi tu tập theo kinh Kim Cương qua: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm.” Mặt khác, khi phó chúc cho Thần Quang-Huệ Khả thì Tổ lại đem Kinh Lăng Già 4 quyển để phó chúc làm tâm địa của Như lai để khai thị ngộ nhập độ thoát chúng sanh? Vì bản thân của hai bản kinh Kim Cương và Lăng Già chúng chỉ phù hợp với những căn cơ phù hợp vào thuộc tính của chúng không thôi, nếu chúng ta phối hợp hai bản kinh này lại để cho cùng một căn cơ thì tự chúng mâu thuẫn tương phản nhau trên mặt sự tướng giữa không và hữu (việc này Truyền Đăng lục cũng chỉ y cứ vào Tuyên Luật sư tục Cao Tăng truyện ghi lại thôi, vì vậy theo chúng tôi, chúng ta nên xét lại, chúng có sự nhầm lẫn nào chăng?). Nhưng trên thực tế thì Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn lại làm việc này: Vừa cho chúng tại gia cũng như xuất gia tu tập kinh Kim Cương đại diện cho Không lý vừa lại sản sanh ra một Thần Tú lại đang ngộ giải lý Thiền thật Hữu qua câu kệ mà Thần Tú đã trình chỗ sở ngộ của mình lên sư phụ nhân cuộc tuyển chọn vị tuyền thừa Tổ sư đời thứ sáu. (Nhưng theo Tổ rõ ràng Đại sư Thần Tú chưa đạt được chỗ rốt ráo của nó và, chính Sư bắt Thần Tú phải làm lại bài kệ khác! Theo Kinh Pháp Bảo Đàn đã ghi lại như vậy trong Phẩm Hành Do.) Vậy thì Thần Tú đã học được những gì nơi Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, trong khi tự thân Thần Tú vẫn chưa biết chính mình có vượt cách được hay không, trước khi quyết định viết lên vách Nam lang bài kệ này?


“身 是 菩 提 樹
心 如 明 鏡 臺
時 時 勤 拂 拭
物 史 惹 塵 埃。
[2]

Phiên âm:

“Thận thị Bồ-đề thọ,
Tâm như minh kính đài;
Thời thời cần phất thức,
Vật sử nhạ trần ai.”


Dịch nghĩa:

Thân là cây Bồ đề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn siêng lau chùi
Chớ để bụi nhơ bám.


Rõ ràng Thần Tú không nắm bắt được tư tưởng của Thầy mình khi bảo Thần Tú làm lại bài kệ khác, nếu vượt cách thì sẽ trao lại ngôi vị Tổ sư đời Thứ sáu cho! Và Ngài đã truyền dạy như thế nào để phải bắt người đệ tử thượng thũ của mình viết ra một bài kệ theo Thiền lý của Thiền tông thì mới được công nhận là vượt cách? Hay theo Pháp Bảo Đàn kinh nói như vậy có quá đi chăng?! Ngay đến một người bửa củi, đạp chày giã gạo, gánh nước nhà sau còn nhìn ra được việc không vượt cách của người cao đồ này huống chi là bậc tông sư Ngũ Tổ!? Việc Ngũ Tổ bắt Thần Túy làm lại bài kệ khác, phải chăng Người muốn dành cho người bửa củi giã gạo có cơ hội thì giờ để thể hiện tánh vượt cách của Ông ta qua việc trắc nghiệm này? Nếu thật sự đúng như vậy thì cả hai đều được lợi lạc. Một bên thì đã tìm ra được người truyền thừa mạng mạch tông sư, đàng khác người bửa củi giã gạo có cơ hội hơp pháp để thực hiện tính vượt cách của mình qua bài kệ này:

“菩 提 本 無 樹
明 鏡 亦 非 臺
本 來 無 一 物
何 處 惹 塵 埃。
[3]

Phiên âm:

“Bồ-đề bổn vô thọ
Minh kính diệc phi đài;
Bản lai vô nhất vật,
Hà xứ nhạ trần ai?”


Dịch nghĩa:

Bồ đề vốn không cây
Gương sáng cũng không đài
Xưa nay không một vật
Nơi nào bụi bám đây!?


Từ sự mâu thuãn giữa hai người học trò trên mặt sự tướng, đã nói lên được tính cách của một bậc Thầy. Và cũng từ đây chúng ta truy nguyên đến vị Sơ Tổ Thiền tông Trung Hoa là Bồ-đề Đạt-ma, chúng không khác gì nhau trên mặt sự tướng trong một con người mang hai phạm trù Thực Hữu – không Thực hữu: Bồ-đề Đạt-ma truyền tâm ấn an tâm cho Nhị Tổ qua “không Thực Hữu” nhưng lại phó pháp qua kinh Lăng Già Thực Hữu (hệ thống Duy thức học thuộc Pháp tướng tông), và Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn tuy trong thực hành theo kinh “không Thực hữu” (Kim Cương kinh) dạy chúng tu tập, nhưng trong học pháp lại dạy Thiền “Thực Hữu” cho cao đồ của mình là Thần Tú! Ở đây chúng ta thấy Ngũ Tổ vẫn trung thành trong việc phó chúc truyền pháp lại cho học chúng hậu lai qua kinh Lăng Già, nhưng vẫn trung thành truyền tâm ấn qua không lý Trung đạo, không thực hữu của kinh Kim cương cho Lục Tổ Huệ Năng và, cũng từ Lục Tổ trở về sau việc truyền pháp không dùng kinh Lăng già nữa mà lại dùng Kinh Kim Cương cho việc ấn chứng và truyền pháp cho các thế hệ mai sau.
Qua hai bài kệ của ngài Thần Tú và ngài Huệ Năng trong phẩm Hành Do, Pháp Bảo Đàn kinh của Lục Tổ Đại Sư (do đệ tử của ngài ghi lại), cho hành giả chúng ta hai khuynh hướng tư duy nhận thức một cách rõ ràng trong việc hàng phục Tâm mình.
Một đàng thân chúng ta như là cây Bồ-đề và tâm chúng ta như đài gương sáng; hai vật này chúng đang hiện hữu như là thực tại qua đó Đại sư Thần Tú cho rằng thực thể của thân là Bồ-đề, còn thực thể của Tâm chính là đài gương sáng. Hai thực thể này chúng đang hiện hữu; nhưng theo Đại sư vì chúng bị bụi bặm bám vào làm lu mờ đi thể trong sáng của chúng, nên chúng ta cần phải siêng năng lau chùi chúng. Qua hai câu kệ đầu Đại sư Thần Tú đưa ra cái Thể của thân và tâm chúng ta và, hai câu sau Đại sư đưa ra cái Dụng lau chùi bụi bặm để hiển thị cái thể của nó, tức là phương pháp muốn giữ gìn thề của thân và tâm luôn luôn cho được thanh tịnh và trong sáng thì phải siêng năng lau chùi. Tuy bài kệ này ở trong kinh Pháp Bảo Đàn do đệ tử của Đại su Lục Tổ ghi lại, nhưng nội dung ý nghĩa của chúng cũng rất phù hợp với những ghi chép của Thiền sư Khuê Phong-Tông Mât trong Thiền tông tự pháp đồ, (禪 宗 嗣 法 圖) thì:
“Bắc Tông dạy rằng tất cả chúng sanh đều có sẵn tính Bồ-đề, như bản tính của gương là chiếu soi, khi phiền não dấy lên thì gương không còn phản chiếu được, giống như gương bị bụi phủ. Nếu như theo lời sư dạy, khi vọng tưởng được hàng phục và trừ diệt, thì nó không còn sinh khởi. Thế nên tâm đươc sáng suốt như bản tính riêng của nó, không có gì là không thông suốt. Đó cũng như lau gương khi không có bụi dính thì gương chiếu soi, không có gì ngoài chiếu sáng.”
[4] Cùng hai thủ bản Đôn Hoàng mà Đại sư Suzuki đã phát hiện ra từ trong thư viện Quôc gia Paris nói về Thiền Bắc tông với nhan đề là: “Bắc Tông Ngũ Đạo Pháp Môn.(北 宗 五 道 法 門)” do các hàng môn đệ của ngài ghi chép lại từ những bài pháp của Thầy họ, nội dung của chúng là:
“1. Thành Phật có nghĩa là giác ngộ, và giác ngộ cốt yếu là không còn khởi vọng tâm.
“2. Tâm an trú tịch tĩnh, các thức đã chuyển hóa thanh tịnh. Trong trạng thái này, cánh cửa tuệ giác tối thượng được khai mở.
“3. Cánh cửa tuệ giác tối thượng này dẫn đến sự chuyển hóa vi diệu của thân và tâm. Tuy nhiên, đây không phải là cảnh giới Niết-bàn tịch diệt của Tiểu thừa, vì tuệ giác tối thượng mà chư Bồ-tát thể chứng là siêu việt hẳn sự phân biệt của các thức.
“4. Sự siêu viêt hẳn tính phân biệt của các thức có nghĩa là tự tại đối với quan niệm nhị nguyên về thâm tâm, trong đó chân tướng các pháp vẫn được duy trì.
“5. Cuối cùng là con đường nhất như dẫn đến pháp giới chân như, không ngăn ngại, không sai biệt. Đây chính là giác ngộ..”
[5]
Tuy hai văn bản tài liệu này chúng không đầy đủ lắm, nhưng tỏ ra chúng rất phù hợp với nội dung tư tưởng ý nghĩa của bài kệ của Đại sư Thần Tú trình lên chỗ sở ngộ của mình cho Đại sư Hoằng Nhẫn trong Pháp Bảo Đàn, do đệ tử của Đại sư Huệ Năng ghi lại trong Pháp bảo Đàn kinh. Sự phù hợp này nói lên tính cách xác thực của bài kệ mang đậm nét tư tưởng theo luật tắc nhân quả trong dụng công thực hành qua chế ngự vọng tâm, trừ sạch vọng niệm khiến tâm trở nên trong sáng thanh tịnh qua chuyển hóa, đưa đến pháp giới chân như không còn những bụi bặm của phiền não bất thiện pháp nữa. Cũng theo Thiền sư Khuê Phong-Tông Mật thì phương pháp để đạt được cứu cánh thanh tịnh trong sáng của thể tâm, trước hết phải thấy rõ được thề tâm xưa nay vốn thanh tịnh trong sáng; nhưng vì chúng sanh chạy theo vọng tâm phân biệt chấp trước nên bụi nhơ phiền não làm lu mờ đi cái bản thể trong sáng xưa nay của tâm kia vốn xưa nay như vậy không đổi. Những gì mà Khuê Phong - Tông Mật đã viết về Thiền Bắc tông của Thần Tú đã xác quyết rằng lối Thiền phủi bụi của Thầy và trò Thần Tú là đầu mối dẫn đến lối Thiền tịch tĩnh. Thiền này nhằm làm trong sạch tâm hành giả bằng cách phủi bụi qua định tâm, hay tập trung tâm vào một đối tượng duy nhất, cắt đứt hết mọi ý tưởng tạp niệm từ bên trong tâm ý phát sinh, hay tâm ý duyên các trần cảnh phát sinh làm loạn động tâm, làm vẫy đục tâm, làm lu mờ tâm. Sự định tâm, cắt đứt mọi duyên trần để trụ tâm vào một đối tượng là một hình thức phủi bụi tâm, lau sạch tâm, làm cho tâm thanh tịnh, đó là một hình thức tu tập theo nhân quả của tiệm tu của Thần Tú cùng các môn đệ của Ngài đã và đang thực hiện theo tinh thần Thiền giáo: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phuong hành. Tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo. (諸 惡 莫 作, 眾 善 奉 行。自 淨 其 意, 是 諸 佛 教)” Khi mà tâm hành giả được thanh tịnh rồi thì tự nhiên thế giới nội tâm hiện tiền sáng tỏ và phản ảnh mọi vật ngoại cảnh một cách rõ ràng. Thần Tú và các Thiền sư khác cùng khuynh hướng tịch tĩnh xác đinh rằng tâm chúng ta luôn luôn hiện hữu và lúc nào cũng thừa hưởng một Phật tánh thanh tịnh vắng lặng, trong sáng xưa nay; nhưng trên thực tế những đức tính ấy chúng ta không nhận diện ra được chỉ vì, tập khí vô minh bao phủ quá dày, do những vọng cầu vọng ngoại, chạy theo duyên ngoài là loạn tưởng tâm trí mờ đi ánh sáng chân tâm. Theo Thần Tú, muốn làm sáng tỏ và nhận ra được tính quang minh thanh tịnh vắng lặng xưa nay vốn sẵn có đó, hành giả chúng ta phải nổ lực, thay vì chúng ta quên nó hay bỏ rơi nó, chúng ta nên quay lại quán chiếu nơi chính nó ở bên trong bằng cách nhờ vào sức định tĩnh tu tập, cắt đứt hết mọi duyên bên ngoài, vì chúng là đầu mối tạo nên mê mờ tâm trí chúng ta, nên phải dứt khoát đoạn trừ và cắt đứt chúng, hướng tâm về một nơi quán chiếu nó trong chánh niệm, để nhận ra bản lai diện mục tính trong sáng thanh tịnh này. Điều này trong giới hạn nào đó, cò thể là theo giá trị nhân quả chúng hoàn toàn tốt cho mọi hành giả trong giá trị kết quả, nhưng nếu đứng về mặc giá trị tuyệt đối dành cho Duyên khởi tánh không thì chúng chưa đạt được rốt ráo. Ngay đến bản thân của Thần tú vẫn chưa thực hiện nốt giá trị nhân quả này khi Thần Tú trình kệ cho Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn qua bài kệ trên, Thần Tú vẫn chưa biết chắc là mình có vượt cách để Thầy mình truyền pháp và truyền lại y bát hay chưa (theo như những gì đã kể lại trong phẩm Hành Do, trong Pháp Bảo Đàn kinh)? Vậy thì làm sao có thể hy vọng để vượt cách được!
Bài kệ của Thần Tú, ở đây chúng ta cứ tạm cho rằng đó là giáo pháp của Thần Tú đi, nhưng trên thực tế đó cũng chỉ là những gì Thần Tú đã học qua Kinh giáo, hay Thiền giáo mà thôi, Người chưa vượt qua được cửa ải của nhân quả thì làm sao có thể lãnh đạo một tông sư được, trong khi những gì Thần Tú nói ra mà chưa biết được chỗ trói buộc (hữu sư, hữu vi) hoặc giải thoát (vô sự, vô vi) của những gì mình đang theo (chỉ cho pháp tiệm giáo), hoặc đang chủ trương thì làm sao có thể đem so sánh với gáo pháp Đốn ngộ Nam Tông của Huệ năng được!?
Từ đó cho chúng ta nhận thức đúng đắn về Đại sư Thần Tú hơn về trình độ ngộ giải và pháp tu của vị cao đồ này là chưa đạt được sự giải thoát rốt ráo. Và cũng vì chưa đạt được chỗ rốt ráo đối với pháp tu của chính mình vẫn còn có chỗ nghi ngờ, nên một hôm Thần Tú phải nhờ đến sự giúp đỡ của một người đệ tử thông minh lanh lợi nhất dưới trướng của mình qua học lén giáo pháp của Huệ năng đang dạy để về nói lại và từ đó đem ra so sanh mới biết rõ kiến giải của mình và kiến giải của Huệ năng về Thiền ai thẳng tắp nhanh chóng hơn ai! Trong Pháp Bảo Đàn kinh
[6], phẩm Đốn Tiệm thứ 8 có đoạn viết:
“Một ngày kia Đại Sư (Thần Tú) gọi môn đồ là Chí Thành bảo:
“Nhà ngươi là người thông minh nhiều trí, có thể vì ta mà đến Tào Khê nghe pháp, những gì đã nghe được phải hết lòng ghi nhớ về thuật lại cho ta.”
Chí Thành vâng lệnh sang Tào Khê theo chúng nghe pháp, nhưng chẳng nói ra xuất xứ của mình. Khi ấy Tổ Sư bảo chúng rằng:
“Hôm nay, có người nghe trộm pháp đang ẩn núp trong hội này.”
Chí Thành liền bước ra làm lễ, kể rõ tự sự đầu đuôi. Sư nói:
“Nhà ngươi từ Ngọc Tuyền đến, đích thị là một tên dọ thám rồi.”
“Thưa, chẳng phải đâu.”
Sư nói:
“Chẳng phải sao được?”
Thưa rằng:
”Chưa nói ra thì phải, đã nói ra rồi thì chẳng phải.”
Sư hỏi:
“Thầy nhà ngươi dạy chúng như thế nào?”
“Thưa, Thầy thường dạy chúng trụ tâm quán tĩnh, ngồi mãi không không nằm.”
Sư bảo:
“Trụ tâm quán tĩnh là bệnh chẳng phải thiền. Ngồi mãi bó thân, đối lý chả có ích gì?”
Hãy nghe kệ ta:

“Đang sống ngồi không nằm
Chết rồi nằm không ngồi
Một đống đầu xương thối
Làm sao lập công tội. “



Chí Thành lại lạy và thưa:
“Đệ tử ở với Tú Đại Sư, chín năm học đạo mà chưa khế ngộ được, nay nghe Hòa Thượng nói một lần liền khế ngộ bản tâm. Đệ tử vì việc lớn sanh tử, mong Hòa Thượng từ bi chỉ đạy thêm cho.”
Sư bảo:
“Ta nghe nói Thầy của nhà ngươi dạy pháp Giới-Định-Huệ cho mọi người, nhưng ta chưa rõ cái Hành tướng của Giới-Định-Tuệ như thế nào? Nói cho ta nghe coi.”
Thành thưa:
“Tú Đại Sư dạy rằng: Các điều ác không làm là Giới, các điều lành vâng làm là Tuệ, tự sạch tâm ý mình là Định, Ngài dạy như vậy chẳng rõ Hòa Thượng dùng pháp gì để dạy mọi người?”
Sư nói:
“Nếu bảo rằng ta có pháp để trao cho người, thì ra ta nói dối với nhà ngươi, nhưng ta chỉ tùy theo chỗ bị trói buộc mà mở trói, tạm gọi là Tam muội. Theo như những điều dạy của Thầy nhà ngươi về Giới-Định-Tuệ thì thật là bất khả tư nghị, nhưng cái thấy của Ta về Giới-Định-Tuệ lại khác.”
Chí Thành thưa:
“Giới Định Tuệ chỉ có một thứ, sao lại khác được?”
Sư dạy:
“Giới-Định-Tuệ của Thầy nhà ngươi dạy chỉ để tiếp độ người Đại thừa, còn Giới Định Tuệ của ta dạy là để tiếp độ những bậc Tối thượng thừa. Sở dĩ ngộ giải chẳng đồng vì kiến giải có chậm có nhanh. Nhà ngươi nghe ta nói có giống với Thầy nhà ngươi không? Ta nói pháp không rời tự tánh, nếu lìa bản thể mà nói pháp, tức chỉ nói đến hiện tượng, còn tự tánh thì vẫn mê, phải biết rằng tất cả muôn pháp đều tự tánh khởi lên hiện tượng tác dụng, đó là pháp Giới-Định-Tuệ chân thật.”
Hãy nghe bài kệ của Ta:

“Tâm địa không tà là Giới tự tánh
Tâm địa không mê là Tuệ tự tánh
Tâm địa không loạn là Định tự tánh
Không thêm không bớt là kim cương
Thân đến hay đi là Tam muội.”



Chí Thành nghe kệ hối lỗi, tạ ơn và trình một bài kệ:

“Năm uẩn là thân huyễn
Huyễn nào có cứu cánh
Quay về với chân như
Pháp lại thành bất tịnh.”


Sư khen phải, lại bảo Chí Thành:
“Giới Định Tuệ của Thầy nhà ngươi để khuyến hóa những người căn cơ thấp, Giới Định Tuệ của Ta dùng để khuyến hóa người căn trí lớn. Nếu ngộ được tự tánh rồi thì Bồ Đề Niết-bàn cũng chẳng cần lập, giải thoát tri kiến cũng chẳng lập, không có một pháp nào có thể nắm bắt được, khi đó mới có thể kiến lập nên vạn pháp. Nếu hiểu được ý này, thì cũng gọi là thân Phật, cũng gọi là Bồ Đề Niết Bàn, cũng gọi là giải thoát tri kiến. Người thấy tánh, lập cũng được, không lập cũng được, đến đi tự do, không vướng không ngại, theo dụng mà làm, theo lời mà đáp, thấy hóa thân khắp cả mọi nơi mà không lìa tự tánh, do đó đạt được thần không du hí tam muội, đó gọi là thấy tánh.”
Chí Thành lại thưa:
”Không lập nghĩa là gì?”
Sư đáp:
“Tự tánh không sai quấy, không u mê, không loạn động, dùng trí tuệ xem xét soi chiếu trong từng niệm một, thường xa lìa mọi hiện tướng, tự do tự tại ngang dọc thông suốt thì cần gì phải lập? Tự tánh tự ngộ, ngộ liền tu liền, không thể từ từ, cho nên không lập bất cứ pháp nào cả. Các pháp vốn tịch diệt làm gì có thứ tự.
[7]
Qua đoạn kinh trích dẫn trên cho hành giả chúng ta hai cái nhìn thật đúng về Đại sư Thần Tú thứ nhất để nói lên cái kiến giải Thiền học bị giới hạn vào nhân quả thật sự chưa vượt qua khỏi cái vượt cách của Thiền Tông để có thể tiếp nối ngôi vị Tổ Sư thứ sáu của Thiền tông Trung hoa vào lúc bấy giờ, vì tự thân Thần Tú còn đang ngờ về Thiền lý chính ông vẫn chưa biết là mình đã vượt qua hay chưa vượt qua để bước vào cửaTổ, khi muốn trình kệ lên, nhưng năm lần bảy lượt không làm được, phải viết vào vách nam lang để nhờ đó mà Đại Sư Hoằng Nhẫn biết được và, sau này, tự thân Thần Tú phải nhờ đệ tử của mình đi nghe pháp Huệ Năng đang dạy người như thế nào, rồi sau đó sẽ tự đem ra so sánh và đánh giá giữa hai chủ trương thiền học của mình và Huệ Năng: Pháp nào trực tiếp chỉ thẳng và nhanh hơn ai trong pháp tu này? Thứ hai, qua đây cho chúng ta thấy rõ sự khác biệt về hành tướng của ba học Giới-Định-Tuệ, mà chính nó là đầu mối để chúng ta có thể khẳng định rằng: “Thời thời cần phát thức, vật sử nhạ trần ai.” và: “ Bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhá trần ai.” là hai phạm trù tư tưởng sai biệt tương phản nhau về tướng và tánh. Tướng là lập cước trên hữu vi pháp để kiến lập pháp tu thuộc về căn cơ hữu lậu, có vật hiện hữu để lau chùi, để phủi bụi; trong khi Tánh lại lập cước trên vô vi pháp mà kiếp lập pháp tu thuộc về vô lậu, không có một vật để lau chùi hay phủi bụi mà phải trực nhập vào pháp tánh tính không mà thể nghiệm; sư sai biệt này dựa vào thuộc tính của căn cơ mà thiết lập, do đó phương pháp đạt đến cứu cánh rốt ráo có mau có chậm như mẫu đối thoại giữa Lục Tổ và sư Chí Thành.
Từ sự sai biệt tương phản giữa hai phạm trù tư tưởng của hai Ngài trong pháp tu và vì vậy, trước hết bài kệ của Đại sư Huệ Năng đưa ra là nhằm phủ định phương pháp Thiền hữu sự như Thiền sư Hà Trạch - Thần Hội
[8] cũng một đệ tử xuất sắc của Tổ Huệ năng đã từng đánh giá về tam học của Đại sư Thần Tú là Hữu sự, trong khi tam học của Huệ Năng thì qui về tự tánh vô sự. Tữ Tánh vô sự này chính là Phật tánh thanh tịnh xưa nay của chúng sanh, nếu hành giả chỉ cần hiểu thẳng tâm này thì sẽ thành Phật, như phần mở đầu trong phẩm Hành Do Lục Tổ đã khẳng định như vậy. Việc hàng phục tâm mình của hành giả qua hữu tướng của Thần Tú: Thân là cây Bồ-đề, tâm như đài gương sáng và, dụng của nó qua lúc nào hành giả cũng lau chùi, để không có bụi nhơ bám vào đài gương sáng, sẽ không đưa đến giải thoát rốt ráo, nếu có giá trị đi chăng nữa thì giá trị này chỉ có trên giá trị nhân quả tương đối mà thôi, không thể nào đưa đến giải thoát rốt ráo như định thức duyên khởi tánh không Thiền vô sự được. Ở đây Thần Tú chủ trương có một cái tâm thực hữu, xưa nay nó vốn trong sáng thanh tịnh, nhưng vì chúng sanh vọng động chạy theo ngoại cảnh bên ngoài nên tâm trở thành bị lu mờ, cần phải tu sửa tâm bằng cách lau chùi bụi mờ đang bám vào tâm làm cho nó không còn trong sáng thanh tịnh nữa, nên cần phải luôn luôn biết bản tâm mình và canh chừng tâm ý đừng cho nó mê mờ tăm tối, không còn những đám mây bản ngã che khuất, khiến cho ánh sáng trong sạch thanh tịnh lưu xuất chiếu soi như chính bản tánh của nó xưa nay. Một chủ trương như vậy, ngay d9e611n Thầy của Thần Tú cũng đã từng xác nhận là với những kiến giải như trong bài kệ đó thì Thần Tú chưa bước vào được cửa Tỗ vì Ngài chưa thấy dược tự tánh của chính mình. Và chính tự ngũ Tổ đã xác nhận với người cao đồ của mình nhân đọc được bài kệ này:
“Tổ đã biết Thần Tú nhập môn chưa được vì chẳng thấy tự tánh. Sáng hôm đó, Tổ cho gọi quan Cung Phụng Lô Trân đến viết đồ tướng lên trên vách nam lang, bỗng thấy bài kệ kia, liền bảo: Quan Cung Phụng! Thôi chẳng cần về nữa. Thật là nhọc công cho ông từ xa lại đây, tuy kinh dạy: “Phàm cái gì có tướng đều là hư vọng.” Nhưng, nên để lại bài kệ này cho mọi người trì tụng. Nếu y vào bài kệ này mà tu hành thì khỏi đọa vào đường ác; hoặc y vào kệ này mà tu hành thì sẽ có nhiều lợi ích. Rồi Ngài bảo môn nhân đốt hương lễ kính và bảo mọi người đều tụng bài kệ này thì sẽ được thấy tánh. Môn nhân tụng kệ đều tấm tắc khen hay. Canh ba Tổ gọi Tú vào phòng hỏi: Nhà ngươi đã làm ra bài kệ đó phải không? Tú thưa: Thật, Tú con đã làm ra bài kệ đó. Con chẳng dám vọng cầu Tổ vị, mong Hòa Thượng từ bi xem thấy đệ tử có chút ít trí tuệ nào chăng?Tổ dạy:
- Nhà ngươi làm ra bài kệ này, chưa thấy được bổn tánh, chỉ đến được phía ngoài cửa chứ chưa vào được trong cửa. Theo kiến giải này thì cầu Vô thượng Bồ đề rõ ràng chưa thể nào được. Vô thượng Bồ đề là ngay lời nói ra cần phải biết tự bổn tâm, thấy được bổn tánh không sanh không diệt. Trong bất cứ lúc nào niệm niệm tự thấy tánh, muôn pháp không buộc, một chơn tất cả đều chơn, mọi hiện tượng tự thanh tịnh, tự như như. Tâm như như tức là chân thật. Nếu thấy như vậy, thì đó chính là Vô thượng Bồ đề.
[9]
Qua đoạn trích dẫn trên cho hành giả chúng ta thấy rằng Thần Tú chưa qua được cửa Tổ, chỉ vì chưa thấy được tự tánh. Như Đại sư Hoằng Nhẫn đã ghi nhận, nhưng chỉ vì thể diện của người cao đồ này nên Đại sư mặc dù biết rằng theo kinh Kim Cương đức Đạo sư đã dạy: “Phàm cái gì có tướng mạo đều là hư vọng!” Ngài vẫn bảo mọi người để lại cho để trì tụng, để theo đó tu hành sẽ đạt được nhiều lợi ích và khỏi đọa vào đường ác. Ngũ tổ Hoằng Nhẫn đưa ra câu kinh này có hai ý nghĩa về tư tưởng cũng như hình thức của bài kệ của Thần Tú này: thứ nhất nếu theo Chơn đế (đệ nhất nghĩa đế) thì bài kệ này chưa đạt, thứ hai nếu theo Tục đế thì bài kệ này vẫn mang lại lợi lạc theo giá trị nhân quả và cũng là để an tâm cho vị cao đồ cùng mọi người dù nó thuộc loại hư vọng. Rồi đến cá nhân Thần Tú, ngũ Tổ đã gọi riêng vào phòng của Ngài và xác nhận với kiến giải như vậy thì rõ ràng là chưa thấy được bổn tánh, chưa vào được nhà Tổ, còn đứng bên ngoài cửa mà thôi. Khi cửa nhà Tổ chưa vào được thì đối với việc cầu đạo Vô Thượng Bồ-đề khó mà tiếp cận huống chi là ngay trong cuộc sống, ngay trong lời nói phải biết phải thấy được bổn tâm bổn tánh của chính mình là không sinh không diệt. Người thấy tánh là người lúc nào cũng thấy rõ ràng bản tánh của mình lúc nào cũng hiện hữu ngay trong từng niệm một, ngay trong cùng sát-na một là muôn pháp không buộc, không lệ thuộc nhau trong tự tại. Lúc này là lúc tánh tướng như như, không phải hai cũng không phải khác, một chơn tất cả chơn, tất cả đều ở trong trạng thái thanh tịnh, tự như như. Tâm như như chính là bản tâm chân thật của chúng ta không còn mọi hiện tượng đối đãi nhau ở đây, do đó không sạch không nhơ không sinh không diệt để còn lấy bỏ, phủi bụi hay lau chùi gì hết. Ở đây nếu hành giả thấy như vậy thì đây chính là Vô Thượng Bồ-đề.
Những gì ngũ Tổ đã dạy cho Thần Tú về việc cầu Vô Thượng Bồ-đề của một hành giả thì phải như vậy, chúng ta thấy chúng phù hợp với tinh thần “Bổn lai vô nhất vật(本 來 無 一 物” theo nghĩa không tánh của muôn pháp, nói về pháp tính xưa nay theo nghĩa chơn đế tuyệt đối, chứ không phải theo nghĩa phủ định hữu tướng của duyên khởi hiện hữu có được từ các duyên như kinh Kim Cương đức Đạo sư đã dạy: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng (凡 所 有 皆 是.虛 妄)” trên mặt giả tướng giả danh được thiết lập qua hệ thống nhân quả để phủ định bài kệ của ngài Thầu Tú. Như vậy, ở đây chúng ta có thể hiểu câu kệ : “Bổn lai vô nhất vật .” có hai nghĩa: Thứ nhất, Huệ Năng muốn phủ đinh phương pháp Thiền tiệm ngộ hữu sự: “Thời thời thường phất thức.” và, thứ hai nói lên tất cả các pháp xưa nay đều là tính không: không ngã, không pháp, khộng có bất cứ pháp nào hiện hữu độc lập mà không nhờ duyên để tồn tại và biến dịch. Do đó tướng hiện hữu có được là tướng như huyễn, giả tạm, giả danh; còn tánh chúng cũng vì vậy mà gọi là Tánh Không.
Nhưng theo bài kệ này mục đích chính của Lục tổ Huệ Năng là muốn phủ định đi tính thực hữu có được của ngài Thần Tú theo bài kệ mà Thần Tú đã làm ra, nhân Ngũ tổ kêu gọi môn nhơn làm kệ trình lên để từ đó Ngài trao lại Tổ vị cho người được công nhận là vượt cách đi vào cửa Tổ, còn nghĩa thứ hai ở đây là thứ yếu. Vì bản thân của Ngài lúc bấy giờ, cho dù là đã ngộ được kinh Kim Cương trước đó, nhân khi nghe người khách tụng kinh này nơi khách điếm, nhưng vẫn chưa được công nhận thậm chí đến việc dự vào hàng Tăng chúng vẫn chưa được công nhận, vì còn đang là kẻ đạp chày giã gạo làm công quả dưới nhà bếp thì làm sao để trình kiến giải làm Tổ được!? Bài kệ này sau đó mới được chính thức công nhận là chúng phù hợp với Không Tánh trung đạo khi được khảo hoạch vào lúc canh ba giữa khuya và, được Ngũ Tổ tâm truyền tân qua: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm,(應 無 所 住 而 生 其 心)” khi Ngũ Tổ nói kinh Kim Cương cho Huệ Năng:
“Hôm sau, Tổ lén đến chỗ giã gạo thấy Năng tôi đang đeo đá nơi lưng giã gạo. Dạy rằng:Người cầu đạo vì Pháp quên mình đến như vậy ư? Lại bảo:
Gạo đã trắng chưa?
Huệ Năng tôi thưa:
Gạo đã trắng từ lâu, chỉ còn thiếu cái sàng.
Tổ dùng gậy gõ xuống cối giã gạo ba lần rồi bỏ đi. Huệ Năng tôi hiểu liền ý Tổ, trống vừa điểm canh ba thì vào phòng Tổ. Tổ dùng áo ca sa che quanh không cho người thấy rồi vì tôi mà nói kinh Kim Cương đến câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm". Huệ Năng tôi hốt nhiên đại ngộ hết thảy muôn pháp đều chẳng lìa tự tánh. Bèn thưa Tổ rằng: "Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, nào ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt, nào ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ, nào ngờ tự tánh vốn chẳng lay động, nào ngờ tự tánh sanh ra muôn pháp".
Tổ biết Huệ Năng tôi đã ngộ bản tánh nên bảo Huệ Năng tôi rằng:
“Người chẳng biết bổn tâm thì học Phật pháp cũng vô ích. Nếu biết tự bổn tâm, thấy tự bổn tánh thì gọi là Trượng phu, là Thầy của Trời Người là Phật".
[10]
Qua cuộc trắc nghiệm đối đáp giữa Thầy và trò với nhau cho hành giả chúng ta thấy rằng chúng phù hợp với những gì mà Ngũ Tổ đã dạy cho Thần Tú cũng vào lúc giữa đêm trước đó vài ngày. Thật ra, Pháp dạy người của Lục tổ Đại sư sau này không phải là pháp mà Huệ Năng học trực tiếp nơi Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, mà là pháp phát xuất từ tự tánh thanh tịnh xưa nay của Ngài phát ra từ khi nghe Kinh Kim Cương nơi khách điếm và, cho đến khi nghe qua Ngũ Tổ chính thức đọc kinh Kim Cương vào lúc giữa đêm đến câu: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” mà chợt hốt nhiên đại ngộ ra muôn pháp xưa nay chẳng lìa tự tánh của chính mình qua những câu ngạc nhiên tán thán reo mừng: “Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, nào ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt, nào ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ, nào ngờ tự tánh vốn chẳng lay động, nào ngờ tự tánh sanh ra muôn pháp". Đây mới chính là những lời nói phát ra từ nơi tự tánh bổn lai thanh tịnh của tự thân mình mà ngài Huệ Năng thật sự chứng ngộ và, chính thức được vị Thầy của mình ấn chứng; cũng từ đó ngôi vị Tổ sư đời thứ sáu của Thiền Tông Trung hoa có người thừa kế. Và, đây cũng chính là Thể tánh thanh tịnh, không sinh diệt, vốn tự đầy đủ, chẳng lay động, nó sinh ra muôn pháp được hiển bày qua kiến tánh của ngài về phương diện tĩnh của Vô nhất vật. Tự tính này qua cái trực giác kiến tính của Ngài Huệ Năng, chúng khế hợp với pháp dạy người của Ngũ Tổ cho Thần Tú. Trong đó, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn chỉ xác nhận sau khi nghe Huệ Năng trình bày chỗ thấy tánh của mình:
"Người chẳng biết bổn tâm thì học Phật pháp cũng vô ích. Nếu biết tự bổn tâm, thấy tự bổn tánh thì gọi là Trượng phu, là Thầy của Trời Người là Phật".
[11]
Trước hết để khẳng định rằng những gì Ngài Huệ Năng thấy về tự tánh như vậy là chính xác và, cũng từ đó cho Huệ Năng biết rằng sẽ vô ích không lợi lạc gì nếu người học đạo mà không biết bổn tâm mình, không thấy tự bổn tánh mình. Ngài tự xác nhận biết tự bổn tâm, thấy tự bổn tánh mình thì chính người đó là Trượng phu, là thầy của Trời, Người, là Phật. Dù qua đây Ngũ Tổ không chính thức xác nhận qua việc tuyên bố trước đại chúng nhưng qua lời tuyên bố ngay lúc bấy giờ: “Nhà Ngươi là Tổ sư đời thứ sáu, hãy khéo léo mà tự hộ niệm và rộng độ hữu tình, lưu lại đời sau không cho đoạn tuyệt.”
[12] Vì qua bài kệ mà Ngài nhờ Biệt Giá Giang Châu là Trương Nhật Dụng viết lên vách Nam lang đã làm kinh ngạc xôn xao trong đại chúng nên Tổ sợ sẽ có người hại Ngài nên đã dùng giày xóa bài kệ đi và, bảo cùng mọi người cũng chưa thấy tánh, mọi người nhờ vậy mà hết nghi.
Sau khi ngài Huệ Năng đã được truyền tâm ấn, vâng theo lời Thầy đi về phương nam để làm hưng thịnh Phật pháp sau này, nhất là xiểng dương cái dụng của Vô Nhất Vật qua pháp môn Vô Niệm Thiền theo con đường Trung đạo của chư Phật đã đi. Lời phát biểu: “Vô Nhất vật” trong bài kệ nhân để trả lời cho bài kề của Thần Tú vào lúc bấy giờ là bị trói buộc trong chấp thủ ý niệm về một cái tâm thanh tịnh xưa nay cần được lau chùi trong hiện tại vì chúng bị lu mờ bỡi bụi trần và, chính nó đã phá hủy một cách có hiệu quả những sai lầm về một ý niệm tính thanh tịnh bản nhiên. Vì ý niệm về tính thanh tịnh bản nhiên vào lúc bấy giờ như là một cái tâm trong mỗi một tâm thức cá nhân nó chính là một thực thể riêng biệt, nó trở thành đối tượng cho một ý niệm siêu việt và trong suốt sạch sẽ trong một đống hỗn độn của bụi trần nhơ uế, cần khám phá khai quật ra nó; ý niệm về bản tính thanh tịnh này không phải là chân tính Bồ-đề vốn thường thanh tịnh của chúng sanh, chính là tính không (śūnyatā) như Huệ Năng đã trực kiến chính là Phật tính mà chúng sanh hữu tình vốn có. Vì ý niệm về bản tính thanh tịnh này chính là một pháp của ý thức, là đối tượng của ý để sinh ra ý thức, vì vậy nó không phải là tính không mà Huệ Năng đã trực kiến khi nghe tụng kinh Kim Cương thuộc văn hệ Bát-nhã. Loại thiện định khán tịnh vào lúc bấy giờ thuộc về loại tĩnh dễ đưa hành giả đến chỗ sai lầm trong lúc khán tịnh của tâm, vì như vậy tâm trở thành đối tượng để cho hành giả khán và, kiểu thiền này thường đưa đến trạng thái mặc chiếu Thiền và sẽ dẫn hành giả đi vào vô ký. Điều này như trong phẩm Tọa Thiền thứ 5 Tổ Huệ Năng đã đề cập khuyến cáo sự sai lầm của nó như sau:
“Môn tọa thiền này nguyên không vướng mắc tâm, không vướng mắc tịnh cũng không phải bất động. Nếu bảo vướng mắc tâm thì tâm vốn là vọng. Nên biết tâm này như huyễn nên không có chỗ vướng mắc. Nếu bảo vướng mắc tịnh thì tánh người vốn tịnh, nhưng do vọng niệm nên che lấp chân như. Chỉ cần không vọng tưởng thì tánh tự thanh tịnh. Nếu khởi tâm vướng mắc tịnh thì chỉ là thứ tịnh của vọng mà thôi, đã là vọng thì không chỗ để bám vào nên gọi là vọng. Tịnh vốn không hình tướng, nhưng lại lập ra tướng tịnh và cho đó là công phu, nếu có kiến giải như vậy thì sẽ làm chướng ngại bổn tánh của mình và sẽ bị tịnh trói buộc.
“Thiện tri thức! Nếu tu mà chẳng động, vậy chỉ cần khi thấy mọi người không thấy phải quấy, thiện ác, tội lỗi của người thì đó chính là tánh chẳng động.
“Thiện tri thức! Người mê, thân tuy chẳng động nhưng khi mở miệng ra hoàn toàn nói chuyện thị phi, hay dở, tốt xấu của người khác, như vậy là trái với đạo. Nếu vướng mắc tâm, vướng mắc tịnh tức là chướng ngại đạo.
Sư thị chúng:
“Thiện tri thức! Sao gọi là tọa thiền? Trong pháp môn này không có gì làm chướng ngại cả. Bên ngoài đối với tất cả cảnh thiện ác mà tâm niệm không khởi lên, đó gọi là tọa. Bên trong, thấy tự tánh bất động, đó gọi là thiền.
“Thiện tri thức! Sao gọi là Thiền định? Bên ngoài lìa tướng là thiền, bên trong chẳng loạn là định. Bên ngoài nếu chấp tướng thì bên trong tâm loạn. Bản tính vốn tự tịnh tự định. Chỉ vì thấy cảnh, duyên cảnh nên tâm loạn. Nếu thấy mọi cảnh tâm không loạn, đó gọi là chân định.
“Thiện tri thức! Ngoài lìa tướng là thiền, trong chẳng loạn là định, ngoài thiền trong định, đó là thiền định. Kinh Bồ tát giới nói: "Ta xưa nay tự tánh thanh tịnh".
“Thiện tri thức! Ở trong mỗi niệm tự thấy bản tánh thanh tịnh, tự mình tu, tự mình thực hành và tự mình thành tựu Phật đạo.
[13]
Qua văn bản trích dẫn này, Huệ Năng đã cho chúng ta thấy được những sai lầm khi chúng ta Tọa Thiền nói chung và khán tịnh, nhìn xem bản tính thanh tịnh của tâm là thế nào? Nên Huệ Năng luôn luôn cực lực lên án loại thiền định như thế này, vì cuối cùng chúng ta tự trói mình vào một đối tượng nào đó làm nô lệ cho một ý niệm mà chúng ta không bao giờ thấy được bộ mặt thật của chúng như thế nào, cho dù ý niệm đó là bản nguyên thanh tịnh, hay Phật tính thanh tịnh gì đó đi nữa thì đó cũng chỉ là một ý niệm của vọng mà thôi, vì chúng ta chưa thấy bột mặt thật của chúng thì làm sao biết được tịnh là thế nào? nhiễm ô là như thế nào mà khán chúng!? Cũng như trong phẩm Đốn Tiện, Pháp Bảo Đàn kinh, khi Huệ Năng hỏi Chí Thành về pháp dạy chúng như thế nào của Thần Tú thì Chí Thành thưa: “Thầy thường dạy chúng trụ tâm quán tĩnh, ngồi mãi không nằm” Thì Huệ Năng bảo: “Trụ tâm quán tĩnh là bệnh chẳng phải Thiền, ngồi mãi bó thân đối lý chả có ích gì!”Ở đây khán tịnh với quán tĩnh không khác nhau trong nghĩa xem xét chiêm nghiện, quán sát tâm thanh tịnh của mình, vì bản thân của khán là nhìn xem với quán là quan sát không khác nghĩa nhau. Khán và quán là chỉ cho chủ thể nhìn xem, quan sát đối với một đối tướng ngoài chủ thể, do đó chủ thể khán và quán về một cái gì là đối tượng khiến cho cái thấy bị phân hai. Trong khi đó thay vì khán hay quán như cách sử dụng xưa nay trong nhà Thiền thì bây giờ Huệ Năng và môn hạ của Ngài dùng chữ kiến trong kiến tính để thay thế cái sai lầm trong cái nhìn phân đội thực thể qua khán hay quán; điều này như cách phân tích của Đại sư Suzuki trong The Zen Doctrine of No-Mind như sau:
“Huệ Năng và các môn hạ bấy giờ sử dụng một thuật ngữ mới là Kiến tính thay vì từ cũ
là khán tịnh. Kiến tính có nghĩa là nhìn sâu vào, nhận ra bản tính (của tâm). Khán và Kiến cả hai đều liên quan đến ý tưởng thấy, nhưng chữ Khán chiết tự ra gồm có chữ thủ 手 (bàn tay) và chữ 目 mục (con mắt) có nghĩa là quan sát một đối tượng độc lập với người quan sát, người thấy và vật được thấy là hai thực thể riêng biệt. Còn chữ 見 Kiến bao gồm mọt con mắt trên đội chân thẳng đứng, biểu tượng thuần túy tính thấy. Khi chữ kiến được dùng chung với chứ tính 性 tức bản tính, Tính thể hay tâm, có nghĩa là cái thấy trong thể tính tối hậu của sự vật mà không phải là việc quán sát một vật thể.
[14]
Thật ra, không phải Ngài Huệ Năng không dùng những thuật ngữ Thiền trước kia và ngay trong hiện tại; nhưng cách dùng của Ngài tùy trường hợp nếu nó không mang lại sự nhầm lẫn và sai lầm đối với hành giả và, cũng tùy theo thuộc tính của từng chủ đề mà Ngài vẫn dùng thuật ngữ Thiền trước đây thường dùng, như khi Ngài nói về tịnh tâm “Tự tính vốn thường thanh tịnh, không ô nghiễm” hay “Mặt trời bị mây che” v.v… Nhưng cốt yếu vẫn tránh xa mọi trói buộc vào ngôn ngữ sử dụng và, tránh tạo những sai lầm cho người đi sau.như trong phẩm Tọa Thiền Ngài đã dạy:mà không lẫn vào Thiền tịch mặc hay mặc chiếu Thiền: “Nếu dùng tâm không ngồi Thiền, tức rơi vào không vô ký.” hay “Lại có người sai lầm ngồi lặng lẽ với tâm không, không cho bất cứ niệm nào khởi lên, tự cho là lớn.” Ngồi Thiền như vậy tất cả bị lệ thuộc vào không và vô tình tạo nghiệp vô ký và, vì vậy nên Ngài khuyên hành giả chỉ cần thực hành: “Pháp môn ngồi Thiền này, nguyên không cần dính mắc đến tâm, cũng không dính mắc đến tịnh, cũng không chọn vào bất động.” đúng với những chỉ dạy của Ngài thì mọi rắc rối trói buộc sẽ tự cắt đức và sẽ được tự tại. Vì khi hành giả: “Khởi tâm dính mắc vào tịnh, thì khiến tịnh thành vọng, nhưng vọng không có xứ sở, nên đắm vào đó là vọng. Tịnh thì không có hình tướng, nếu dựa vào tướng tịnh cho là công phu, hành giả nào có kiến giải như vậy thì sẽ tự làm chướng ngại bản tính và, bị tịnh trói buộc.”
Sở dĩ hành giả tu Thiền chúng ta không thể nào đi trực tiếp vào bản tịnh được là vì xưa nay chúng ta qua quá nhiều trung gian, nhưng những trung gian đó cũng chỉ là hình bóng của bản tính mà thôi, mà hình bóng thì lúc nào cũng là vọng. khi chúng ta dính mắc vào những thứ vọng đó thì cho dù nó là hình ảnh của tịnh, và từ đó chúng ta tạo cho cái tịnh đó một cái thực thể, như vậy chúng ta sẽ dính cứng vào chúng vĩnh viễn. Hay đối với Không cũng vậy, nếu chúng ta dính mắc và coi chúng là một thực thể và an trú vào trạng thái tịch lặng thì hành giả chúng ta bị Thiền trói buộc. Vì để tránh những nguy hiểm có thể xảy ra cho hành giả, khi tu Thiền bị rơi vào tà kiến trói buộc lệ thuộc vào những ý niệm trung gian, dù là gì đi nữa khi chúng ta còn là chúng sanh thì những ý niệm dù là tốt, là thiện vẫn là những ý niệm vọng. Như trong ba bài pháp đầu tiên sau khi Ngài Huệ Năng trốn về phương nam sau khi đắc pháp thì bài pháp cuối cùng Tổ dạy cho Ấn Tông nhân Ngài tới chùa Pháp Tánh, Quảng Châu gặp lúc Pháp sư Ấn Tông giảng kinh Niết-bàn. Nhân đó Ấn Tông hỏi về việc Tổ Hoằng Nhẫn truyền pháp như thế nào? Huệ Năng đáp
[15]
“Truyền dạy thì không, nhưng chỉ luận về thấy tánh chứ chẳng luận về thiền định hay giải thoát gì cả.
Tông hỏi:
Tại sao không luận về Thiền định và giải thoát?
Năng tôi bảo:
Vì hai pháp chẳng phải Phật pháp, mà Phật pháp là pháp không hai.
Tông lại hỏi:
Sao gọi pháp không hai là Phật pháp?
Huệ Năng tôi nói:
Pháp sư giảng kinh Niết Bàn đã làm rõ Phật tánh, thì đó chính là pháp không hai của Phật pháp như Bồ tát Cao Quí Đức Vương bạch Phật: Người phạm vào cấm giới thuộc bốn tội nặng, tạo năm tội nghịch cùng bọn Nhất Xiển Đề thì Phật tánh thiện căn của họ có bị đoạn mất không? Phật dạy: Thiện căn có hai: một là thường, hai là vô thường, còn Phật tánh thì chẳng phải thường, chẳng phải vô thường cho nên chẳng bị đoạn. Đó gọi là không hai - Một là thiện, hai là bất thiện còn Phật tánh chẳng phải thiện, chẳng phải không thiện. Đó gọi là không hai. Uẩn và Giới phàm phu thấy hai, người trí liễu đạt tánh của chúng không hai. Tánh không hai là Phật tánh.”
Qua bài Pháp này đã làm sáng tò việc thiện, ác chúng được quan niệm như thế nào đối với pháp Không hai của đức Đạo sư và, cũng từ cơ sở này chúng ta có thể nhận thức một cách chính xác hơn về bài kệ của Huệ Năng qua câu: “Vô nhất vật.” là phủ nhận tất cả mọi nhận thức một cái ý niệm về tâm được coi như là thực hữu dù có phủi bụi hay không phủi bụi, dù là vô thường hay là thường, dù là thiện hay bất thiện chúng vẫn là pháp đối đãi nhị nguyên mà trong khi Phật tính hay Tánh không, tánh không hai là Phật tánh, là tính không là Vô nhất vật về mặt thể tánh.
Cũng vì vậy cho nên Ngài Huệ Năng cảnh cáo hành giả tu Thiền chúng ta qua lời phát biểu “Vô Nhất Vật” trong bài kệ mà Ngài đã trình bày qua Ngũ Tổ mang nhiều ẩn dụ cho những người đi sau để tránh.khỏi những sai lầm mà người trước đã vấp phải vào lúc bấy giờ. Vô nhất vật nó làm nhiệm vụ chuyên chở ba ẩn dụ mà chỉ có Vô sở trụ hay Vô niệm mới nói rõ lên được chức năng của nó mà thôi. Vì vậy, từ Vô nhất vật đến Vô sở trụ chúng chỉ khác nhau trên mặt bản thể và hiện tượng mà thôi. Về mặt Thể (Tánh), thì Vô nhất vật hiển bày tính thanh tịnh, sau khi hành giả chúng ta thấy lại bản tính của chính mình qua Kiến Tánh đó là Tính Không (śūnyatā) xưa nay của các pháp. Còn nếu đứng về mặt Tướng thì Vô nhất vật phá hủy mọi hiện tượng có được của các pháp dù là chỉ trên ý niệm và, như vậy ở đây chủ ý chính là phá pháp “Thời thời cần phất thức” của Thần Tú để tiếp cận bước giải thoát mà Huệ Năng chủ trương sau này. Và cuối cùng là thể hiện con đường Trung đạo Vô niệm vượt thoát sau này của mình cho môn hạ tại gia cũng như xuất gia của Ngài.



[1] Cảnh đức Truyền Đăng lục 3, chương Bồ-đề Đạt-ma. Đ. 51. trg. 0218c12.
[2] Pháp Bảo Đàn kinh, phẩm Hành Do.
[3] Pháp Bảo Đàn kinh, Phẩm Hành Do.
[4] . Theo “The Zen Doctrine of No-Mind” Đại sư Suzuki. Bản dịch của Thích Nhuận Châu. tr. 21.
[5] . Theo “The Zen Doctrine of No-Mind” Sđd …………………………………………………………... tr. 21.
[6] . Ấn bản Đại chánh Tân Tu , Pháp Bảo Đàn kinh, Phẩm Đốn Tiệm thứ 8 (Đ. 48. tr. 358b-358c).
[7]. Theo The Zen Doctrine of No-Mind của Đại sư Suzuki thì thủ bản Đôn Hoàng có những chỗ như ý nghĩa về phiền não (kleśa) tức Bồ-đề (bodhi), còn trong bản Đại Chánh Tân tu và, những bản biệt hành hiện đang lưu hành tại Việt nam thì không có. Trên đại thể ý nghĩa về hành tướng của ba học Giới-định-tuệ hoàn toàn giống nhau không có điểm nào khác.
[8] . Thần Hội hòa thượng thiền thoại lục, Trung Hoa Phật giáo điển tịch tuyển san. Dương Tằng Văn biên giáo.
[9] . Pháp Bảo Đàn kinh, Phẩm Hành Do 1 (Đ. 48. tr. 0348b)
[10] . Pháp Bảo Đàn kinh, Phẩm Hành Do 1 (Đ. 48. tr. 0349a)
[11] . Pháp Bảo Đàn kinh, Phẩm Hành Do 1 (Đ. 48. tr. 0349a)
[12]. Pháp Bảo Đàn kinh, Phẩm Hành Do 1 (Đ. 48. tr. 0349a)
[13] . Pháp Bảo Đàn kinh, Phẩm Tọa Thiền (Đ. 48. tr. 0353b)
[14] . Sđd, tr. 34. Thích Nhuận Châu dịch.
[15] . Pháp Bảo Đàn, Phẩm một Hành Do 1 (Đ. 48. tr. 0349a)

Read More
Người đăng: Phổ Đồng on Chủ Nhật, 9 tháng 11, 2008
0 nhận xét
categories: | | edit post




梁 昭 明 太 子 分 經 石 臺


梁 朝 昭 明 太 子 分 經 處

石 臺 猶 記 分 經 字

臺 基 蕪 沒 雨 花 中

百 草 驚 寒 盡 枯 死

不 見 遺 經 在 何 所

往 事 空 傳 梁 太 子

太 子 年 少 溺 菸 文

強 作 解 事 徒 紛 紛

佛 本 是 空 不 著 物

何 有 乎 經 安 用 分

靈 文 不 在 言 語 科

孰 為 金 剛 為 法 華

色 空 境 界 茫 不 悟

癡 心 歸 佛 佛 生 魔

一 門 父 子 多 膠 蔽

一 念 之 中 魔 自 至

山 陵 不 涌 蓮 花 臺

白 馬 朝 渡 長 江 水

楚 林 禍 木 池 殃 魚

經 卷 燒 灰 臺 亦 圯

空 留 無 益 萬 千 言

後 世 愚 僧 徒 聒 耳

吾 聞 世 尊 在 靈 山

說 法 渡 人 如 恆 河 沙 數

人 了 此 心 人 自 渡

靈 山 只 在 汝 心 頭

明 鏡 亦 非 臺

菩 提 本 無 樹

我 讀 金 剛 千 遍 零

其 中 奧 旨 多 不 明

及 到 分 經 石 臺 下

終 知 無 字 是 眞 經

.阮攸


Phiên âm:

Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài.

Lương triều Chiêu Minh thái tử phân kinh xứ,

Thạch đài do kí “Phân kinh” tự.

Đài cơ vu một vũ hoa trung,

Bách thảo kinh hàn tận khô tử.

Bất kiến di kinh tại hà sở?

Vãng sự không truyền Lương thái tử Thái tử.

Thái tử niên thiếu nịch ư văn,

Cưỡng tác giải sự đồ phân phân.

Phật bản thị không bất trước vật,

Hà hữu hồ kinh an dụng phân?

Linh văn bất tại ngôn ngữ khoa,

Thục vi Kim Cương vi Pháp Hoa?

Sắc không cảnh giới mang bất ngộ,

Si tâm quy Phật Phật sinh ma.

Nhất môn phụ tử đa giao tế,

Nhất niệm chi trung ma tự chí.

Sơn lăng bất dũng liên hoa đài.

Bạch mã triêu độ Trường Giang thủy,

Sở lâm họa mộc trì ương ngư,

Kinh quyển thiêu hôi đài diệc dĩ.

Không lưu vô ích vạn thiên ngôn,

Hậu thế ngu tăng đồ quát nhĩ.

Ngô văn Thế Tôn tại Linh Sơn,

Thuyết pháp độ nhân như Hằng Hà sa số.

Nhân liễu thử tâm nhân tự độ,

Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu.

Minh kính diệc phi đài,Bồ Đề bản vô thụ.

Ngã độc Kim Cương thiên biến linh,

Kì trung áo chỉ đa bất minh
Cập đáo phân kinh thạch đài hạ,

Chung tri vô tự thị chân kinh .



Việt dịch:

Đài đá 'phân kinh’ của thái tử Lương Chiêu Minh.



Nơi phân kinh Chiêu Minh thái tử[1],

Đài đá còn in chữ phân kinh.

Nền hoang hoa dại phủ trong mưa,

Trăm cỏ chết khô run sợ rét.

Chẳng thấy lưu kinh ở nơi nào?

Việc chỉ nghe qua Lương Thái tử,

Ấu thời người lại thích văn chương.

Cưỡng bày chú giải thêm lộn xộn.

Phật vốn là không, vật chấp nào,

Vậy có kinh nào để đặt chia?

Văn linh nào nhờ nơi ngôn ngữ,

Kim Cương, Pháp Hoa là kinh gì?

Cảnh giới sắc không mà không tỏ,

Lòng mê theo Phât, Phật thành ma.

Cha con một nhà đều mù cả,

Một niệm khởi lên ma tự đến.

Lăng tẩm, đài sen không tự mọc,

Một sớm trường giang bạch mã qua,

Cây lây rừng Sở ao cá vạ,

Kinh đốt ra tro đài sập luôn.

Muôn vạn nghìn lời thôi vô ích,

Tăng ngu hậu thế miệng lia thia.

Tôi nghe Thế tôn tại Linh Sơn,

Nói pháp độ người như số cát[2].

Người tỏ tâm này người tự độ,

Linh sơn chỉ tại tấm lòng ngươi.

Gương sáng trong veo cũng không đài,

Bồ-đề xưa nay vốn không cây.

Ta đọc Kim Cương hơn nghìn biến,

Áo chỉ trong kinh không tỏ nhiều.

Cho đến dưới đài đá phân kinh,

Cuối cùng “Vô tự” biết là chân kinh.

Qua nội dung bài thơ này, Nguyễn Du tiên sinh đã cho chúng ta biết được sự thông hiểu về giáo lý Đại thừa nhà Phật nói chung và, nhất là Thiền Tông Phật giáo nói riêng của cụ, không những về mặt nghiên cứu học hỏi thâm hiểu thông suốt sâu xa không thôi, mà ngay cả đến vấn đề thực hành trong tu tập để đưa đến sự đạt ngộ về Thiền qua “Vô Tự” là chân kinh cũng được cụ thể hiện rốt ráo nữa. Thường những người nghiên cứu Phật Giáo về Truyện Kiều mà không đọc qua thơ chữ Hán của Cụ thì hầu hết đều có những cái nhìn sai lạc về Phật Giáo nói chung và về cụ Nguyễn Du nói riêng. Vì Nhân duyên, tác nhân thọ quả, tội phước báo ứng của Phật giáo trong truyện Kiều của Cụ Nguyễn Du được Cụ đưa vào để phủ định thuyết Thiên mệnh của Nho Giáo để trả lại sứ mệnh của con người do chính con người tạo ra trong chức năng tự tác tự thọ chứ không phải đưa ra để dung hợp hay, đưa ra để tạo sự mâu thuẫn giữa thiên mệnh và nhân mệnh tạo thành một thế giới quan tiêu cực hỗn tạp như một số tác giả đã nói. Ở đây chúng tôi sẽ đưa ra một số nhận định đại diện cho các nhà phê bình từ xưa đến nay về Phật giáo theo quan niệm hiểu của họ rồi đem gán cho cụ Nguyễn Du qua truyện Kiều và, qua đó chúng ta đem so sánh với cái thâm hiểu Phật giáo của Cụ Nguyễn Du nói chung và Thiền tông nói riêng qua bài thơ trên chính Cụ đã làm, nhân chuyến đi sứ Trung Quốc, về sự thâm hiểu và ngộ nhập vào lý Không Trung đạo của Phật giáo như thế nào? Để từ đó chúng ta đánh giá đúng thật sự về Cụ Nguyễn Du đã chịu ảnh hưởng Phật giáo như thế nào, chứ không phải như những nhà học giả phê bình bằng vào sự tưởng tượng của chính mình đem áp đặt lên cho Cụ, rồi bảo quan niệm của Cụ về Phật Giáo như thế này, như thế nọ theo ý riêng tư của mình, trong khi họ không hiểu biết một cách chính xác gì về Phật giáo, hay có biết Phật giáo cũng thuộc dạng nửa vời, hời hợt, sai lạc khi đề cập về Phật giáo trong truyện Kiều của cụ Nguyễn Du!
Theo cụ Trần Trọng Kim trong “Lý thuyết Phật học trong truyện Kiều.
[3]” thì cho rằng: “ Theo đạo Phật ở đời không có gì là không có nhân duyên, mà cái nhân duyên đó kết hợp thành cái nghiệp. Cái phần tốt, phần hay của nàng Kiều là ở chỗ dù khổ sở thế nào, cũng giữ được cái tâm trong sạch, cái bụng nhân nghĩa và cái sức cố gắng mà phấn đấu với cái nghiệp chướng của mình. Cái giá trị của con người ta ở đời cốt ở chỗ ấy, mà cái nhân cách của con người ta có rõ rệt ra là cũng ở chỗ ấy.”
“Cái thuyết nhân quả và cái nghiệp của nhà Phật gần giống như cái thuyết định mệnh (déterminisme) của triết học bên Tây. Nhưng chỉ khác ở chỗ cái định mệnh của nhà Phật là do tự mình định ra, chứ không phải tự ở sức ngoài sai khiến. Thành thử cái thuyết nhân quả vẫn để cho mình có cái hoàn toàn tự do. Mình phải theo cái nghiệp tự mình gây ra cho mình, chứ không phải cái nghiệp tự đâu gây ra mà bắt mình phải chịu.”
Và cũng trong bài này, chỗ khác cụ viết: “Nguyễn Du không chỉ giải diễn cái tư tưởng của Phật học ở trong Truyện Kiều mà thôi, tiên sinh còn làm bài Văn tế thập loại chúng sinh cũng theo đúng cái tư tưởng ấy.”
Chỗ khác cụ Trần Trọng Kim viết, “cứ như ý tôi thì Truyện Kiều bày tỏ một cách rất rõ ràng cái lý thuyết nhân quả của nhà Phật.” và cụ Trần Trọng Kim, cho Truyện Kiều là một tác-phẩm “văn dĩ tải đạo” thật sâu sắc. Điều này chứng tỏ “tiên sinh là một người học rộng, tinh thông cả Nho học và Phật học.”
Còn theo cụ Đào Duy Anh trong Khảo luận về “truyện Thúy Kiều”
[4] đã viết:
“Nhưng Nguyễn Du không phải là một nhà nho thuần túy. Cái tình đa cảm, những kinh nghiệm đau đớn đã đem Nguyễn Du đến Phật giáo. Ông không thỏa mãn đối với cái luật ‘bỉ sắc tư phong,’ vì nó mới chỉ là một nhận xét tuồng như đúng mà chưa cắt nghĩa rõ ràng về lý do. Người ta vẫn chưa hiểu tại sao lại có cái luật thừa trừ như thế. Ông không chịu rằng người ta không có trách nhiệm gì về sự cân nhắc họa phúc của Trời. Ông bèn lấy chữ nghiệp của nhà Phật mà phát huy cho chữ mệnh của nhà nho. Theo luật nhân quả của Phật thì những điều người ta làm ở kiếp này là nguyên nhân sẽ sinh ra kết quả ở kiếp sau, mà những điều người ta làm ở kiếp trước là nguyên nhân sinh ra kết quả ở kiếp này. Những việc làm trước sinh ra kết quả ở sau gọi là nghiệp.” Và chỗ khác Cụ viết:
“Thực ra tư tưởng nhờ thiện tâm mà giảm nhẹ bớt được nghiệp chướng để hưởng thụ ngay ở kiếp này thì không đúng hẳn với quan niệm nhân quả thuần túy của nhà Phật, nhưng nó lại rất đúng với quan niệm nghiệp báo hay báo ứng phổ thông trong dân gian. Chính như cái tư tưởng ‘trời định’ (tỷ-dụ, khi Đạm Tiên báo cho Kiều là ‘Đoạn trướng [đã] sổ rút tên ra’ hoặc khi sư Tam Hợp cho rằng Kiều tuy có ‘hại một người [Từ Hải, nhưng] cứu muôn người’ thì ‘khi nên, trời cũng chiều người’) ... cũng không có quan hệ gì với Phật lý, nhưng vốn là điều người mình tin lắm, vô luận là người theo Phật hay theo Nho. Vậy ta nên nói rõ rằng tư tưởng Phật giáo của Nguyễn Du ở đây là theo tín ngưỡng thông thường của dân chúng.”
Còn Theo Cao Huy Đỉnh Triết lý đạo Phật trong truyện Kiều
[5] đã viết:
“Trong cái khối thế giới quan tiêu cực hỗn hợp của Truyện Kiều,” ông viết, “triết lý Phật chiếm một liều lượng lớn, vì chất bi quan yếm thế của nó dễ diễn tả nhất những nỗi day dứt siêu hình ở trong tâm trạng con người, nhất là phụ nữ, nạn nhân cực khổ nhất của xã hội phong kiến, càng là nạn nhân cực khổ nhất của thời đại Nguyễn Du. Đạo Nho lúc này đây chỉ còn có những con người đa tình, phong nhã hào hoa như Kim Trọng, những con người tầm thường sống trong khuôn phép tầm thường như Thúy Vân, như Vương Quan, những con người biết yêu biết khóc nhưng không dám hành động như Thúc Sinh, những ông quan lừng chừng như viên tri phủ, những vị trọng thần ‘mặt sắt cũng ngây vì tình’ như Hồ Tôn Hiến. Đạo Nho rõ ràng đang suy sụp cùng với cả cái nền tảng xã hội phong kiến của nó. Cương thường đạo lý của nó không còn sức hấp dẫn nữa.”
Ở đoạn khác Cao Huy Đỉnh viết:
“Phải chăng đây là mối cảm tình đặc biệt của Nguyễn Du và thời đại ông đối với Phật giáo? Nó át hẳn cái lý của Nho giáo mà ông phải theo một cách gượng gạo. Chữ ‘nghiệp’ [làm] mê muội và an ủi tâm hồn yếu đuối quả đã hấp dẫn được lòng người đang sợ hãi cái thực tại đầy đau thương và thổi thêm luồng gió bi quan vào trong cơn bão táp thời đại Nguyễn Du và trong Truyện Kiều.”
Và theo Trần Đình Sử, Thi Pháp truyện kiều
[6], trong phần Truyện Kiều như một đối tượng của văn học so sánh, đã viết:
“Thực ra đạo Phật đã bị khúc xạ khi đi vào truyện Kiều. Nhận xét về sự hỗn dung, pha trộn Phật – Nho là rất có căn cứ. Trong thơ chữ Hán đã có nhiều bài, nhiều câu thể hiện cho tư tưởng Phật như: “Hà năng lạc phát “ (Làm sao có thể gọt tóc vào rừng đi tu), “Mãn cảnh giai không hà hữu tướng, thử tâm thường định bất ly thiền” (Đầy trời là không, không hình tướng, tâm này thường định vào ý thiền). Còn trong truyện Kiều thì nghiệp và mệnh trời bổ sung cho nhau, nhân ái và từ bi bổ sung cho nhau. Nhưng tính chất dung hợp cũng đã làm nhạt nhòe tư tưởng Phật giáo.”
Đó là những quan điểm đại diện cho các khuynh hướng của các nhà học giả phê bình từ xưa đến nay viết về Phật giáo theo truyện Kiều của cụ Nguyễn Du mà chúng tôi đã trích ra, và sau đây chúng tôi sẽ trình bày Phật giáo của Nguyễn Du qua sự thâm hiểu và đạt ngộ của Cụ như thế nào theo bài thơ mà chính cụ đã viết nhận chuyến đi sứ Trung quốc:
Qua toàn bộ ý tưởng bài thơ này không những cụ Nguyễn Du đã thâm hiểu một cách triệt để về tư tuởng Phật giáo Đại thừa, mà nhất là tư tưởng Thiền tông kinh qua thực hành độc tụng Kinh Kim Cương. Một bản kinh mà Phật giáo Thiền tông Trung quốc đã y cứ vào đó để cho các hành giả Thiền tu tập
[7]. Một bài thơ mà trong đó nó chuyên chở cả hệ thống Thiền tông từ Ấn Độ nơi khơi mào Thiền tại Linh Thứu sơn qua “Niêm Hoa Vi Tiếu” giữa đức Đạo sư và Tôn giả Ma-ha Ca-diếp trong việc truyền trao Tâm ấn “Chánh Pháp nhãn tạng, diệu tâm Niết bàn thực tướng vô tướng truyền riêng ngoài giáo”[8], truyền mãi cho đến Ngài Bồ-đề Đạt-ma và cho đến Lục tổ Huệ Năng Đại sư Tại Trung quốc đều được gói gém trọn trong một bài thơ này để cuối cùng nói lên chỗ sở ngộ của mình về Kinh Kim Cương. Ngoài những ý chính này ra, Nguyễn Du tiên sinh cũng để cảnh tỉnh những ai làm việc với tâm hữu sự vì chút danh hay chút lợi đều đi ngược lại với tư tưởng Thiền giải thoát của đức Đạo sư cả. Dưới đây chúng tôi sẽ phân tích và chứng minh những điều đó qua thực tế của bài thơ:
Để đi vào chủ đề bài thơ Nguyễn Du tiên sinh nhân đi thăm viếng những nơi có lẽ theo người Trung quốc lúc đó thì “Phân Kinh Thạch Đài” xưa kia của Thái tử Lương Chiêu Minh là một nơi có tiếng tăm nên được nhà nước Trung Hoa vào lúc bấy giờ hướng dẫn cho các sứ thần nước khác đến viếng thăm hay ít ra chỉ đặc biệt dành cho cụ Nguyễn Du nước Việt nam nhân chuyến đi sứ Trung quốc vào năm 1813 này thôi ?
Vào đầu bài thơ Cụ viết:

梁 朝 昭 明 太 子 分 經 處
石 臺 猶 記 分 經 字
臺 基 蕪 沒 雨 花 中
百 草 驚 寒 盡 枯 死
不 見 遺 經 在 何 所.

Phiên âm:
“ Lương triều Chiêu Minh thái tử phân kinh xứ,
Thạch đài do kí “Phân kinh” tự
Đài cơ vu một vũ hoa trung
Bách thảo kinh hàn tận khô tử
Bất kiến di kinh tại hà sở.”

Dịch nghĩa:
"Nơi phân kinh Chiêu Minh thái tử
[9],
Đài đá còn in chữ phân kinh;
Nền hoang hoa dại phủ trong mưa,
Trăm cỏ chết khô run sợ rét.
Chẳng thấy lưu kinh ở nơi nào?"

Sự hiện hữu và đổi thay của mọi hiện tượng tất cả đều do nhân duyên đủ đề hình thành và biến dịch và chúng bị luật vô thường chi phối nên muôn sự muôn vật thuộc vật lý và cả tâm lý cũng bị chúng chi phối làm thay đổi biến dịch tất cả, không có một vật thể nào có thể được gọi là trường tồn vĩnh viễn với thới gian hết. Ở đây đài phân kinh xưa kia của Thái Tử Lương Chiêu Minh cũng nằm trong quy luật tất yếu này, cụ Nguyễn Du đến viếng nơi này chỉ còn thấy những hiện vật trơ mờ hai chữ “phân kinh”, mà không thấy kinh lưu lại nơi nào? Còn chăng chỉ một nền đá hoang tản phủ đầy hoa cỏ dại nằm trong mưa, trăm loại cỏ cây chết vì sợ giá lạnh khắc nghiệt của thời tiết. Đối với hiện thưc của cảnh vật được cụ Nguyễn Du chứng kiến qua con mắt của mình khi viếng thăm nơi này chỉ có vậy thôi, còn việc nghe qua tai thì Cụ viết tiếp như sau:

往 事 空 傳 梁 太 子
太 子 年 少 溺 菸 文
強 作 解 事 徒 紛 紛


Phiên âm:
“Vãng sự không truyền Lương Thái tử
Thái tử niên thiếu nịch ư văn,
Cưỡng tác giải sự đồ phân phân.

Dịch nghĩa:
"Việc chỉ nghe qua Lương Thái tử;
Ấu thời người lại thích văn chương,
Cưỡng bày chú giải thêm lộn xộn."

Về nội dung của việc phân kinh này như thế nào thì trong hiện tại chỉ thấy qua những sự kiện đổi thay của sự vật còn nội dung và ý nghĩa của nó thì chỉ có nghe qua người nói lại biết rằng Thái tử họ Lương lúc còn trẻ tuổi thích văn chương thi phú, thích nghiên cứu trước tác nên đã cưỡng bày ra việc đem kinh ra giảng giải chú thích, nhưng cuối cùng nó chỉ mang lại cho người đọc và người đi sau thêm phần lộn xộn rắc rối mà thôi. Cụ Nguyễn Du đã phê bình việc làm này của Thái tử Lương Chiêu Minh và cho cả những người đi sau như chúng ta nữa, đó là một việc làm trói buộc trái với đạo lý giải thoát của đức Đạo sư, Cụ viết tiếp:

“佛 本 是 空 不 著 物
何 有 乎 經 安 用 分
靈 文 不 在 言 語 科
孰 為 金 剛 為 法 華
色 空 境 界 茫 不 悟
癡 心 歸 佛 佛 生 魔
一 門 父 子 多 膠 蔽.

Phiên âm:
“Phật bản thị không bất trước vật
Hà hữu hồ kinh an dụng phân
Linh văn bất tại ngôn ngữ khoa
Thục vi Kim Cương vi Pháp Hoa
Sắc không cảnh giới mang bất ngộ
Si tâm quy Phật Phật sinh ma
Nhất môn phụ tử đa giao tế.


Dịch nghĩa:
“Phật vốn là không, không chấp vật
Vậy có kinh nào để đặt chia?
Văn linh nào nhờ nơi ngôn ngữ
Kim Cương, Pháp Hoa là kinh gì?
Cảnh giới sắc không mà không tỏ
Lòng mê theo Phât, Phật thành ma
Cha con một nhà đều mù cả."


Ngay đến Phật dù mang hình thức vật hay là tâm cũng đều là hư vọng, giả danh như huyễn đứng về mặt tướng, còn nếu đứng về mặt thể thì là Không, là tánh không, vì tất cả đều hiện hữu nhờ vào các duyên mà có. Có này chỉ là một tập hợp của năm uẩn (sắc (đất, nước, gió, lửa) thọ, tưởng hành, thức) không có bản chất nhất định nào của năm uẩn này làm chủ nên nó là không. Tóm lại Phật, nếu đứng về mặt tướng thì Phật là như huyễn, nếu đứng về mặt thể thì là tánh không, cho nên ở đây cụ Nguyễn Du đã nói lên được chỗ tột cùng của tướng chân thật của Phật là Không. Và ở đây tướng và thể của Phật là như huyễn và, tánh của Phật là tánh không, vậy chúng ta dựa vào cái gì để mà chấp trước? Ngay đến Phật còn không, huống chi là kinh pháp, vậy chúng ta lấy gì đặt để và phân chia? Như trong Kinh Kim Cương đức Đạo sư đã dạy: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng. (Phàm vật gì có tướng mạo, đều là hư vọng.)” Và cũng trong Kinh kim Cương chỗ khác đức Đạo sư dạy: “Nhứt thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điễn, ứng tác như thị quán.[10] (Tất cả pháp có tạo tác, như mộng, huyễn, bọt, ảnh, như sương cũng như điện, nên quán chúng như vậy). Do vậy cho nên cụ Nguyễn Du đã phê bình sự sai lầm của Thái tử Lương Chiêu Minh trong cách hiểu Phật và giáo pháp của Ngài nên đã làm một công việc không có ích lợi gì hết, Thái tử chỉ hiểu biết Phật qua hình thức mà thôi còn cốt tủy của Phật và giáo pháp của Ngài lại không hiểu biết gì hết nên bày ra việc phân chia kinh điển luận giải lôi thôi! Như Cụ đã nói Văn linh không cần nhờ vào ngôn ngữ. Ở đây cái linh văn chính là phần cốt tủy nội dung của nó chứ không phải ở nơi ngôn ngữ lời nói; chính kinh Kim Cương, kinh Pháp Hoa cũng vậy. Pháp Hoa, Kim cương chỉ là sự tập hợp của ngôn ngữ, mà ngôn chỉ là mang hình thức nâng đỡ cho nội dung của nó chứ ngôn ngữ không phải là nội dung của chính nó, do đó chúng ta không nên chấp vào hình thức văn tự của Pháp Hoa hay Kim Cương, vì hình thức không là gì hết, nếu chúng ta căn cứ vào hình thức ngôn ngữ để đánh giá nó thì đó là một việc làm theo cụ Nguyễn Du là sai lầm, không đúng tôn chỉ và, xa lìa cốt tủy của nó. Theo cụ Nguyễn Du nếu muốn thông hiểu Phật pháp cho đúng thì phải thông hiểu cảnh giới sắc-không, bằng không hiểu cảnh giới sắc-không thì chúng ta là những kể mê không bao giờ hiểu đúng những lời dạy của Phật hết; cho dù chúng ta đem lòng mê muội này để đi theo Phật, thì theo Cụ, Phật mà chúng ta theo đó cũng thành ma mà thôi! Để kết luận cho việc làm này của Thái tử Lương Chiêu Minh, Cụ Nguyễn Du đã bảo Thái tử và cha của Thái tử là Lương Vũ Đế cả nhà hai cha con đều mù cả là vậy. Vì sao ở đây cụ Nguyễn Du bảo cả hai cha con của Lương Vũ đế đều mù cả? Vì như theo Pháp bảo Đàn kinh[11]:
“Một hôm Lục Tổ đăng đàn nói pháp thì, Vi Thứ Sử hỏi Sư rằng: “Đệ tử có nghe khi Đạt-ma mới giáo hóa cho Lương Võ Đế. Đế có hỏi rằng: "Một đời Trẫm xây dựng chùa chiền, cúng dường chúng Tăng, bố thí thiết trai, vậy có công đức gì không?" Đạt Ma dạy: "Thật chẳng có công đức gì cả". Đệ tử chưa rõ được lý này, mong Hòa Thượng vì đệ tử mà chỉ dạy. Sư dạy:
“Thật chẳng có công đức gì cả, chớ nghi ngờ lời nói của Thánh xưa. Vì Võ Đế mang tâm tà nên chẳng hiểu chánh pháp. Việc xây dựng chùa chiền, cúng dường Tăng chúng, bố thí thiết trai là những việc cầu phước, chẳng thể đem phước đó để làm công đức được. Công đức thì ở trong pháp thân chứ chẳng phải ở việc tu phước.”
Theo Phân kinh thạch đài của Thái tử Lương Chiêu Minh và những điều hỏi của Vua cha Lương Vũ Đế đối với Tổ sư Bồ-đề Đạt-ma về công đức làm phước theo nhân quả thì ở đây rõ ràng cũng giống việc làm của người con thôi. Vì vậy cho nên Cụ Nguyễn Du mới bảo là “Cha con một nhà đều mù cả” là như vậy.
Qua việc phê bình này rõ ràng Cụ Nguyễn Du không những chỉ thâm hiểu về Giáo lý Đại Thừa không thôi, mà nhất là đối với Thiền tông Cụ cũng thông suốt tất cả về cả hai mặt về lịch sử truyền thừa và tư tưởng, nhất là việc thực hành Thiền tông hằng ngày của Cụ, chúng tôi sẽ đề cập đến sau. Ở đây chúng tôi xin đề cập đến sự thông hiểu Giáo lý Đại thừa của Cụ, nếu đối với Phật giáo Đại thừa mà Cụ chưa thông hiểu thì đương nhiên trong bài thơ này cụ đã không lấy kinh Pháp Hoa ra để làm điển tích thí dụ cùng với kinh Kim Cương một bản kinh được Thiền tông Trung Hoa lấy làm nền tảng tu học cho các tồng đồ của mình. Kinh Pháp Hoa một bản kinh trung gian đưa người Tiểu thừa lên Đại thừa qua nhịp cầu khai Quyền – hiển Thật (Vì Quyền pháp ba thừa dẫn độ chúng sanh nên tạm nói có ba thừa, với mục đích là phương tiện nói Quyền để mà hiển Thật, tức là tạm vì căn cơ chúng sanh mà nói ba thừa để hiển bày một thừa, đó chính là Phật thừa). Từ cửa Tích môn 14 phẩm trước Phật phương tiện nói pháp ba thừa (thời gian nói kinh pháp từ khi Đạo sư thành đạo cho đến Pháp Hoa hội thượng thì pháp ba thừa là phương tiện, quyền pháp, còn pháp nhất thừa, tức Phật thừa mới là Thật pháp) đến cửa Bản môn 14 phẩm sau của Kinh Pháp Hoa (đức Đạo sư thuyết về Thân Phật từ lúc thị hiện Đản sinh cho đến lúc thành đạo dưới bóng cây Boddhi và cho đến nay (lúc nói kinh Pháp Hoa), thân này chẳng phải là thật thân của Ngài, mà đã từ lâu ngài đã thành tựu pháp thân chân thật rồi, vì muốn cứu độ chúng sanh nên Ngài mới phương tiện mượn ứng hóa thân này thành tựu dưới bóng cây Bồ-đề hóa độ mà thôi.) Với mục đích nhằm khai quyền hiển thật mới thật sự nhìn ra được tướng chân thật của các pháp vốn là Không, tướng chúng là tướng Không tịch, xưa nay chúng thường là tướng tịch diệt không sở hữu, như một đoạn trong bài kệ trong Kinh Pháp Hoa
[12] đức Đạo sư dạy Tôn giả Xá-lợi-phất:
“…….
是故舍利弗!  我為設方便,

說諸盡苦道,  示之以涅槃。

我雖說涅槃,  是亦非真滅,

諸法從本來,  常自寂滅相。

佛子行道已,  來世得作佛,

我有方便力,  開示三乘法。

一切諸世尊,  皆說一乘道,
今此諸大眾,  皆應除疑惑,
諸佛語無異,  唯一無二乘。…”

Phiên âm:
“…Thị cố Xá-lợi-phất,
Ngã vị thuyết phương tiện,
Thuyết chư tận khổ đạo,
Thị chi dĩ Niết –bàn.
Ngã tuy thuyết Niết-bàn,
Thị diệc chi chân diệt;
Chư pháp tùng bản lai,
Thường tự tịch diệt tướng.
Phật tử hành đạo dĩ,
Lai thế đắc tác Phật,
Ngã hữu phương tiện lực,
Khai thị tam thừa pháp.
Nhất thiết chư Thế Tôn,
Giai thuyết nhất thừa đạo;
Kim thử chư đại chúng,
Giai ưng trừ nghi hoặc,
Chư phật ngữ vô dị,
Duy nhất vô nhị thừa …”

Dịch nghĩa:
Cho nên Xá-lợi-phất
Vì phương tiện Ta nói
Thuyết con đường hết khổ
Dẫn đạo đến Niết-bàn.
Tuy Ta nói Niết-bàn
Đó cũng chẳng diệt thật
Các Pháp từ xưa nay
Thường ở tướng tịch diệt.
Phật tử đã hành đạo,
Đời sau được làm Phật;
Ta có sức phương tiện.
Khai mở pháp ba thừa.
Tất cả các Thế Tôn,
Đều nói đạo Nhất thừa,
Nay trong đại chúng này,
Cần phải trừ nghi hoặc,
Chư Phật không khác lời,
Chỉ một, không hai thừa.

Ở đây Cụ nhờ đã thâm hiểu kinh Pháp Hoa của Đại thừa về cốt tủy của nó nên đồng với Kinh Kim Cương trên mặt lập tông chỉ về thật tướng của các pháp, nên Cụ đã đưa kinh Pháp Hoa và Kinh Kim Cương vào đây như là một điển tích, từ đó phương tiện phá hủy mọi hình thức có tính ước lệ trói buộc, mà đi sâu vào thật tướng của các pháp, xa lìa hết mọi vọng tưởng phân biệt chấp trước của các pháp hữu vi hữu lậu, đạt đến cứu cánh Không tịch Niết-bàn tối hậu. Chỉ có như vậy mới hiểu đúng và đi đúng con đường Trung Đạo của đức Đạo sư để lại mà thôi. Đó là sự thâm hiểu Phật pháp Đại thừa qua kinh Pháp Hoa và kinh Kim cương của Cụ, và nhất là Cụ Nguyễn Du đã lựa chọn bộ kinh Kim Cương lấy làm nền tảng cơ bản cho pháp tu của mình, trong thực hành tu tập thường ngày khi chưa thâm ngộ ra thực tướng của các pháp. Theo chân lý tối hậu của đức Đạo sư thì khi chúng ta chưa tỏ ngộ được cảnh giới sắc không thì như cụ đã nói lòng mê theo Phật cũng thành ma, dù chúng ta có nói đến cảnh giới thực chứng của thánh trí đi chăng nữa thì, cảnh giới đó cũng biến thành ma như trong kinh Viên Giác đức Đạo sư đã dạy ngài Kim Cang Tang và, ở đây với cụ Nguyễn du cũng vậy: “Lòng mê theo Phật, Phật thành ma.” Cho nên theo cụ khi chúng ta chưa ngộ đạo thì chúng ta đang sống với cảnh giới mê vọng, nên trong mọi ý nghĩ khởi lên đều mang hình bóng của mê lầm, mà theo đức Phật thì thế giới mê lầm vọng tưởng là thế giới của ma.
Vì sao thế giới vọng tưởng mê lầm gọi là thế giới của ma, vì ma đại diện cho thế lực vô minh vọng tưởng điên đảo sai lầm tạo ra khổ đau, vì vậy nên đức Phật bảo muốn thoát khổ được vui an ổn hạnh phúc thật sự thì phải giải thoát khổ qua con đường trung đạo bát chánh. Cũng vì lý do này nên cụ Nguyễn Du đã khuyên cáo các vị Tăng sau này trong đó có chúng ta là: “Một niệm khởi lên ma tự đến.” Hãy cẩn thận trong mọi ý nghĩ mang mầm móng trói buộc phiền não khổ đau. Vì mọi ý nghĩ của chúng ta khi còn là chúng sanh thì ý nghĩ khởi lên đều mang mần móng của khổ đau và trói buộc phiền não do ba độc tham sân si gây nên cả. Đây chính là tác nhân vọng tưởng điên đảo của ma mà chúng ta gây nên và sau đó sẽ đưa đến những thọ quả tương ứng với những tác nhân mà chúng ta đã gây ra. Tất cả mọi hiện tượng tâm vật lý của thế giới quan có được này đều phát sinh từ chánh báo (nghiệp báo chính mà chúng ta đã tạo ra kiếp trước nay thọ quả báo qua kiếp người trong hiện tại) cùng y báo (xứ sở là duyên đủ và hợp với chánh báo nơi chúng ta sinh ra) của các hữu tình chúng sanh cả, chúng lệ thuộc vào luật tắc nhân quả mê lầm điên đảo của hữu lậu pháp tạo ra chứ không có bất cứ hiện tượng nào được gọi là ngẫu nhiện hay tự nhiên sinh ra, mà chúng phải do nhân duyên đủ hòa hợp nhau mà hiện hữu:

一 念 之 中 魔 自 至
山 陵 不 涌 蓮 花 臺
白 馬 朝 渡 長 江 水
楚 林 禍 木 池 殃 魚
經 卷 燒 灰 臺 亦 圯
空 留 無 益 萬 千 言
後 世 愚 僧 徒 聒 耳


Phiên âm:
“Nhất niệm chi trung ma tự chí.
Sơn lăng bất dũng liên hoa đài.
Bạch mã triêu độ Trường Giang thủy,
Sở lâm họa mộc trì ương ngư,
Kinh quyển thiêu hôi đài diệc dĩ.
Không lưu vô ích vạn thiên ngôn,
Hậu thế ngu tăng đồ quát nhĩ.”

Dịch nghĩa:
“Một niệm khởi lên ma tự đến.
Lăng tẩm, đài sen không tự mọc,
Một sớm trường giang bạch mã qua,
Cây lây rừng Sở ao cá vạ,
Kinh đốt ra tro đài sập luôn.
Muôn vạn nghìn lời thôi vô ích,
Tăng ngu hậu thế miệng lải nhải.”

Trong một niệm khởi lên phải phát xuất từ một nguyên nhân nào đó, lăng tẩm không tự dưng mọc lên đài sen, ngựa trắng vượt trường giang vào một sớm không phải là không có nguyên nhân, nguyên nhân đưa đến kết quả rừng Sở cháy và, rừng Sở cháy là nguyên nhân đưa đến vạ lây cho cá, kinh đã đốt đâu còn nữa, đài cũng sập luôn, tất cả mọi hiện tượng sinh ra và biến dịch đi đều có nguyên nhân của nó. Chúng bị luật vô thường chi phối, không có bất cứ hiện tượng tâm vật lý nào tồn tại mãi mãi với thời gian, do đó chúng ta không thể chấp vào bất cứ vào hiện tượng có được do nhân duyên đủ hòa hợp mà hiện hữu đó cho là có thật là chân lý, mà chúng chỉ là những hiện hữu giả hợp, giả danh do nhân duyên sinh ra, nên chúng không có tự tánh hay bản thể nhất định nào và, như vậy chúng là không, không có sở hữu. Vậy thì viêc gì chúng ta phải nhiều lời về chúng, vì những hiện hữu đó rồi sẽ bị luật vô thường chi phối không còn là chính nó nữa, nên sự đánh giá của chúng ta về sự hiện hữu tạm thời này là không đúng như cụ Nguyễn Du đã cảnh cáo trong câu: “Muôn vạn nghìn lời thôi vô ích.” nhiều lúc làm hại cho người đi sau và, nhất là những vị tăng vô học đời sau sẽ dựa vào đó mà rêu rao thuyết giảng nhảm nhí! Chúng chả có ích lợi gì, khi chúng không còn là chính chúng trong giây phút sau đó, như một tế bào chẳng hạn, điều này chúng rất phù hợp với nền khoa học hiện đại của chúng ta đang phát triển. Qua đây chúng ta thấy kiến thức và sự thâm hiểu Phật giáo Đại thừa của cụ Nguyễn Du thật là sâu sắc và chính xác; để từ sự thâm hiểu sâu xa và chính xác này đã đưa cụ Nguyễn Du đến việc thực hành Phật giáo Thiền tông qua kiến thức thông hiểu lịch sử truyền thừa Thiền Tông từ Ấn Độ đến Trung hoa như dưới đây chính cụ đã tự viết lên sự thật đó.

“吾 聞 世 尊 在 靈 山
說 法 渡 人 如 恆 河 沙 數
人 了 此 心 人 自 渡
靈 山 只 在 汝 心 頭
明 鏡 亦 非 臺
菩 提 本 無 樹.


Phiên âm:
“Ngô văn Thế Tôn tại Linh Sơn
Thuyết pháp độ nhơn như Hằng hà sa số
Nhơn liễu thử tâm nhơn tự độ
Linh sơn chỉ tại nhữ tâm đầu
Minh kính diệc phi đài
Bồ-đề bổn vô thọ.

Dịch nghĩa:
Tôi nghe Thế tôn tại Linh Sơn,
Nói pháp độ người như số cát
[13].
Người tỏ tâm này người tự độ,
Linh sơn chỉ tại tấm lòng ngươi.
Gương sáng trong veo cũng không đài,
Bồ-đề xưa nay vốn không cây.


Như trên chúng tôi đẽ đề cập đến, Linh Thứu sơn chính là đỉnh núi đức Thế Tôn đã mở ra pháp hội truyền trao Phật tâm tông cho người đồ đệ của mình là Tôn giả Ma-ha Ca-diếp, như lịch sử truyền thừa của phái này đã truyền dạy. Chính trong pháp hội Linh Sơn đức Thế Tôn ở giữa đại chúng cầm cành hoa giơ lên giữa mọi người và im lặng; nhưng trong chúng này không có một người nào thấu hiểu được việc làm của đức Đạo sư mang ý nghĩa gì, nên mọi người hoàn toàn im lăng, duy nhất chỉ có một mình Tôn giả Ma-ha Ca-diếp là rạng mặt mỉm cười, đức Đạo sư liền tuyên bố: “Ta có chánh pháp nhãn tạng diệu tâm Niết-bàn, thực tướng vô tướng, bất lập văn tự, truyền riêng ngoài giáo. Nay trao lại cho Ma-ha Ca-diếp tôn giả.”[14] Từ Tôn giả Ma-ha Ca-diếp truyền xuống Tôn giả A-nan và cho đến Bồ-đề Đạt-ma Tổ 28 của Ấn Độ và cũng là Tổ thứ nhất của Thiền tông Trung Hoa. Từ Bồ-đề Đạt-ma truyền xuống Đại sư Huệ Năng tổ thứ sáu của Trung Hoa. Qua đoạn thơ trên Cụ Nguyễn Du đã cho chúng ta thấy rằng không những cụ chỉ thâm hiểu sâu xa về Phật giáo Đai thừa không thôi, mà ngay đến thiền sử truyền thừa bên Thiền tông Người cũng nắm vững một cách rõ ràng và hệ thống. Thiền Trung hoa nổi lên từ Lục Tổ mà vị Tổ thứ năm là Thiền sư Hoằng Nhẫn thầy truyền lại y bát cho Lục Tổ Huệ Năng qua Kinh Kim Cương, nhưng bài kệ nổi tiếng của ngài Huệ năng như dưới đây, không phải là bài kệ chính thức ngộ đạo của Ngài:

“菩 提 本 無 樹
明 鏡 亦 非 臺
本 來 無 一 物
何 處 惹 塵 埃。
[15]


Phiên âm:
Bồ đề bổn vô thọ
Minh kính diệc phi đài
Bổn lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai?


Dịch nghĩa
“Bồ-đề vốn không cây
Gương sáng cũng không đài
Xưa nay không một vật
Nơi nào bụi nhơ bám?”

Mà nó phát xuất từ cuộc đối đầu lại tư tưởng Thiền học của Thần Tú qua bài kệ:

“身 是 菩 提 樹
心 如 明 鏡 臺
時 時 常 拂 識
使 惹 塵 埃。”


Phiên âm:
Thân thị Bồ-đề thọ
Tâm như minh kính đài
Thời thời thường phất thức
Vật sử nhá trần ai.
[16]


Dịch nghĩa:
“Thân là cây Bồ-đề

Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn siêng lau chùi
Chớ đẻ bụi nhơ bám!”

Nhằm để phủ định phương pháp Thiền tiệm tu luôn luôn siêng lau chùi bụi nhơ nơi tâm mình của Đại sư thần Tú, mà chủ trương ngược lại chỉ cần thấy tánh tức khắc thành Phật không cần phải siêng năng lau chùi như chủ trương của Thần Tú qua hai câu: “Người tỏ tâm này, người tự độ, Linh Sơn chỉ tại tấm lòng ngươi!”. Linh Sơn ở đây chỉ là một ẩn dụ được cụ đưa ra để tỏ ra chính nó là cõi lòng của mỗi người. Thứ nữa là nói lên tinh thần không một vật xưa nay của các pháp vốn không, không có sở hữu vì tính duyên khởi tính không của chúng. Đó là những gì cụ Nguyễn Du đã học hỏi được từ lịch sử Thiền từ Pháp Hội Linh Sơn nơi đất Ấn Độ đến Hoàng Mai nơi đất Trung hoa, cụ đã mượn nửa bài kệ trên của Lục Tổ Đại sư dạy lại cho chúng ta nhân cuộc viếng thăm Phân kinh thạch Đài của Thái tử Lương Chiêu Minh nhà Lương Trung quốc. Qua đoạn thơ trên cụ cho chúng ta thấy rằng, Núi Linh thứu là một danh sơn, nơi xưa kia đức Đạo sư đã từng thuyết nhiều bộ kinh Đai thừa quan trọng và, độ vô số chúng sanh như số cát sông Hằng, mà Cụ đã nhắc lại trong bài thơ này. Nơi đây cũng là nơi chính đức Đạo sư truyền trao chánh pháp nhãn tạng cho Tôn giả Ma-ha Ca-diếp vị Tổ đầu tiên của Thiền tông Ấn Độ để truyền mãi về sau này sang Trung quốc qua hai câu cụ mượn lại trong bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng : “Gương sáng trong veo cũng không đài, Bồ-đề xưa nay vốn không cây.” để phủ định những hiện tượng đang hiện hữu có được đều là hư vọng như trong kinh Kim cương chính đức Đạo sư đã dạy: “Phàm vật gì có tướng đều là hư vọng”
[17]. Từ những thâm hiểu về Phật giáo Đại thừa và nhất là đối với Thiền tông nên từ đó Cụ đã trở thành một hành giả tu tập thiền theo Kinh Kim Cương. Không biết sự tu tập Thiền của Cụ có Thầy hướng dẫn hay không? Điều này chúng ta không thấy trong văn thơ Cụ để lại, nhưng có một điều chính đích thân cụ nói ra trong thơ văn của mình là đã từng đọc tụng hàng nghìn lần kinh Kim Cương đó là một việc có thật như đoạn thơ kết của bài thơ trong Phân Kinh Thạch Đài dưới dây:

我 讀 金 剛 千 遍 零
其 中 奧 旨 多 不 明
及 到 分 經 石 臺 下
終 知 無 字 是 眞 經 .”

Phiên âm:


Ngã độc Kim Cương thiên biến linh,


Kì trung áo chỉ đa bất minh
Cập đáo phân kinh thạch đài hạ,
Chung tri vô tự thị chân kinh .”


Dịch nghĩa:
Ta đọc Kim Cương hơn nghìn biến,

Áo chỉ trong kinh không tỏ nhiều.

Cho đến dưới đài đá phân kinh,

Cuối cùng “Vô tự” biết là chân kinh.”

Việc độc tụng kinh Kim Cương, nếu như không phải là một hành giả tu Thiền tông thì dứt khoát không bao giờ có ai bỏ hàng nghìn lần ra để ngồi đó mà đọc tụng kinh Kim Cương chơi hay nghiên cứu, mà chỉ có những hành giả hành hành trì Thiền tông mới làm được những việc này. Vì bản thân bộ kinh Kim Cương không phải là một bộ kinh dễ đọc tụng, vì chúng đòi hỏi người độc tụng phải có trình độ căn cơ vượt lên trên hệ thống nhân quả, phải là người nắm bắt được thật tướng của các pháp qua kiến thức nhờ vào định thức Duyên khởi mới có thể phù hợp với bản kinh này. Nếu người nào không có trình độ này thì chỉ cần độc tụng qua một lần thì sẽ thối lui, hoặc có độc tụng đi nữa cũng dưới dạng độc tụng để tu phước mà thôi. Hơn nữa như chính Cụ Nguyễn Du trong bài thơ đề động Nhị Thanh đã từng viết là:

“…
滿 境 皆 空 何 有 相
此 心 常 定 不 離 禪。

Phiên âm:
"… Mãn cảnh giai không hà hữu tướng
Thử tâm thường định bất ly Thiền...”
[18]

Dịch:
… Mọi cảnh đều không, có tướng sao?
Tâm này thường định, chẳng lìa Thiền…”


Đích thị là Cụ đã tự giới thiệu cho mọi người biết là Tâm cụ không bao giờ lìa Thiền định, có nghĩa là cụ luôn luôn ở trong thiền định. Vậy thì những việc làm của Cụ đó không phải là một việc làm của hành giả đang hành Thiền tu tuệ đó là gì!? Vì cốt tủy của bộ kinh Kim Cương chính là một phương pháp tu để trụ tâm và hàng phục Tâm mình qua công án: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm?
[19] (Nên trụ vào không chỗ, mà sinh tâm mình.)”. Xưa kia Lục Tổ Huệ Năng cũng qua Công án này mà ngộ lý Thiền và, bây giờ Cụ Nguyễn Du cũng qua Kinh Kim Cương để thực tập Thiền hàng nghìn lần độc tụng và cuối cùng Cụ cũng tỏ ngộ được bộ kinh này qua “Đài đá phân kinh” nhân tố cuối cùng của một quá trình tu tập đó đã làm bùng vỡ nghi tình của công án Thiền thuộc kinh Kim Cương. Nó là giọt nước cuối cùng đổ vào công án nghi tình này làm bùng vỡ tâm hữu vô của Cụ. Qua việc ngộ kinh Kim cương này cụ giờ đây đích thực là một thiền sư, là Thiền sư Tố Như – Nguyễn Du theo nghĩa truyền thửa của nó chứ không còn là một học giả Phật học hay học giả của Thiền tông chỉ hểu biết qua trên mặt kiến thức không thôi.
Qua bài thơ này Cụ Nguyễn Du đã tự giới thiệu cho chúng ta biết rằng Cụ là người thông hiểu Phật pháp Đại thừa và nhất là thông hiểu lịch sử truyền thừa Thiền Tông và không những thế chính Cụ là một hành giả tu tập Thiền tông như thế nào? Ở đây chúng tôi không phải là những người không thông hiểu gì về Phật giáo và nhất là văn thơ chữ Hán của Cụ để rồi tự tưởng tượng ra một thứ Phật giáo theo kiểu của mình rồi áp đặt lên cho cụ, mà chính những gì cụ là người thông hiểu và hành trì Phật giáo theo cách riêng của Cụ mà viết về chính mình đã am hiểu và thực hành Phật giáo như vậy. Những gì Cụ đã viết về Phật giáo của chính Cụ như vậy, nếu chúng ta đem so sánh với những bài viết của những nhà học giả nghiên cứu phê bình văn học Việt nam từ trước cho đến nay, hoàn toàn là những cái nhìn sai lạc về Phật giáo theo cách am hiểu và thực hành của chính cụ. Theo tinh thần và nội dung của bài thơ này chúng ta thấy nó không phù hợp gì với những cách nhìn về Phật giáo của Cụ Nguyễn Du qua truyện Kiều cả. Qua đây chúng ta mới thấy việc nghiên cứu về một tác giả về một khuynh hướng nào đó, nhất là vấn đề tôn giáo chúng ta nên cẩn trọng: Thứ nhất phải hiểu qua toàn bộ sự nghiệp văn chương của tác giả và nhất là những đối tượng mang tính cách tư tưởng tôn giáo và triết học, chúng ta phải biết rành và thông hiểu về những phạm trù đặt biệt này, nếu hai vấn đề này mà chúng ta không nắm vững thì tốt nhất là đừng nên viết về họ và viết về những phạm trù đặc biệt mà chúng ta không am hiểu, hay am hiểu một cách cạn cợt nửa vời rồi đem áp đặt quan điểm của mình lên cho tác giả đó. Ở đây khi nghiên cứu về truyện Kiều của cụ Nguyễn Du viết về Phật giáo cũng vậy, chúng tôi thấy những nhà học giả nghiên cứu phê bình viết về Phật giáo trong Truyện Kiều của Cụ Nguyễn Du, họ viết theo lối tưởng tượng áp đặt quan điểm hiểu biết cạn cợt nửa vời hay sai lạc của mình về Phật giáo rồi cho đó là quan điểm của Cụ Nguyễn Du về Phật giáo trong truyện Kiều. Như quan điểm của cụ Đào Duy Anh viết về Phật giáo theo Cụ Nguyễn Du, “Thực ra tư tưởng nhờ thiện tâm mà giảm nhẹ bớt được nghiệp chướng để hưởng thụ ngay ở kiếp này thì không đúng hẳn với quan niệm nhân quả thuần túy của nhà Phật, nhưng nó lại rất đúng với quan niệm nghiệp báo hay báo ứng phổ thông trong dân gian.”
Còn Cao huy Đỉnh thì viết “Phải chăng đây là mối cảm tình đặc biệt của Nguyễn Du và thời đại ông đối với Phật giáo? Nó át hẳn cái lý của Nho giáo mà ông phải theo một cách gượng gạo. Chữ ‘nghiệp’ [làm] mê muội và an ủi tâm hồn yếu đuối quả đã hấp dẫn được lòng người đang sợ hãi cái thực tại đầy đau thương và thổi thêm luồng gió bi quan vào trong cơn bão táp thời đại Nguyễn Du và trong Truyện Kiều.”
Và Trần Đình Sử viết: “Thực ra đạo Phật đã bị khúc xạ khi đi vào truyện Kiều. Nhận xét về sự hỗn dung, pha trộn Phật – Nho là rất có căn cứ. Trong thơ chữ Hán đã có nhiều bài, nhiều câu thể hiện cho tư tưởng Phật như: “Hà năng lạc phát “ (Làm sao có thể gọt tóc vào rừng đi tu), “Mãn cảnh giai không hà hữu tướng, thử tâm thường định bất ly thiền” (Đầy trời là không, không hình tướng, tâm này thường định vào ý thiền). Còn trong truyện Kiều thì nghiệp và mệnh trời bổ sung cho nhau, nhân ái và từ bi bổ sung cho nhau. Nhưng tính chất dung hợp cũng đã làm nhạt nhòe tư tưởng Phật giáo.”
Phật giáo của Cụ Nguyễn Du trong tuyện Kiều có phải như những tác giả trên đã viết như vậy hay không? Hay đó chỉ là những tưởng tượng theo cái nhìn cá nhân của họ rồi bảo cụ quan niệm Phật giáo như vậy theo phạm trù tư tưởng của họ để viết về phạm trù tư tưởng Phật giáo của Nguyễn Du qua truyện kiều!? Qua sự thâm hiểu Phật pháp của cụ Nguyễn Du như trong bài thơ trên đúng là chúng không liên hệ gì đến một cái Phật giáo được họ hiểu mù mờ gượng ép đồng hóa với dân gian xã hội, trong khi Phật giáo cụ Nguyễn Du đưa vào truyện Kiều là để phủ định quan điểm Thiên mệnh của Nho giáo vào lúc bấy giờ của cụ Nguyễn Du. Điều này muốn tìm hiểu rõ xin quí độc giả tìm đọc bài “Nguyễn Du đã chịu ảnh hưởng Phật giáo như thế nào?” (trong “THỎNG TAY VÀO CHỢ” NXB Văn Hóa Sài Gòn 2007 tháng 12, của Đại Lãn). Có lẽ những nhà học giả phê bình trên do vì không am hiểu Phật giáo, nhất là những thuật ngữ chuyên môn của Phật giáo, cho nên dù ai là người giỏi Hán ngữ nhiều đến đâu, nhưng đối với những thuật ngữ chuyên môn của nhà Phật mà không am hiểu thì cũng phải hiểu sai tư tưởng và dịch sai mà thôi. Ở đây chúng tôi đơn cử tác giả Trần Đình Sử trong Thi pháp truyện Kiều có đưa ra những câu thơ có ảnh hưởng đến Phật giáo của cụ Nguyễn Du đã hiểu và dịch sai ý tác giả; qua kiểu dịch như vậy thì, đúng là họ đã làm hại Nguyễn Du và làm hại Phật giáo, chỉ vì họ không am hiểu những thuật ngữ Phật giáo mà cụ Nguyễn Du đã dùng trong thơ của cụ như câu thơ: “Mãn cảnh giai không hà hữu tướng, thử tâm thường định bất ly thiền” mà tác giả Trần Đình Sử dịch như vầy (Đầy trời là không, không hình tướng, tâm này thường định vào ý thiền). Chữ “cảnh” ở đây mà dịch là “trời, bầu trời” thì không đúng và sai nghĩa hoàn toàn. Vì chữ “Cảnh” ở đây nó là một thuật ngữ của Phật giáo chỉ cho những đối tượng của “Căn”, tức là chỉ cho năm “trần cảnh” ở bên ngoài thân con người như sắc, thinh, hương. vị, xúc; chúng là những đối tượng của mắt, tai, mũi, lưỡi và thân con người, mà thuật ngữ Phật giáo thường gọi là “Ngũ căn” (năm căn), còn chữ Cảnh thường gọi là “Ngũ cảnh” hay “Ngũ trần cảnh”. Ở đây vì tác giả Trần Đình Sử không am hiểu thuật ngữ của Phật giáo nên đã dịch sai câu thơ này của cụ Nguyễn Du. Câu thơ trên chúng ta phải dịch như vầy: “Mọi vật đều không, có tướng nào? Mọi vật ở đây chỉ cho mọi hiện tượng bên ngoài như núi sông nhà cửa cây cối, những vật gì có hình tướng để mắt chúng ta thấy được đều thuộc về “sắc”, cùng những âm thinh, tiếng động mà tai chúng ta nghe được chung quanh, gọi là “thinh”, và những mùi thơm, hôi, thối v.v… mà mũi chúng ta ngửi thấy được thuộc về “hương” những vị đắng, cay, ngọt, bùi v.v… mà lưỡi chúng ta nếm được thuộc “vị”, cùng những vật chung quanh khi chúng ta tiếp xúc có lạnh, nóng, ấm, mát, trơn, nhám v.v.. qua thân thì thuộc về “xúc”. Tất cả những vật này đều là không, vì sự hiện hữu của chúng là do các duyên đủ hòa hợp mà thành, vậy cái thành này là giả hợp, nên sự hiện hữu này không có thật thể; chúng cũng sẽ theo duyên mà biến dịch không còn nữa theo luật vô thường tác động, nên chúng không có bất cứ một bản tính nào nhất định để gọi là thật có cả, cuối cùng chúng là không. Thì chữ Không này mới là chữ không của Phật giáo, là chữ không của cụ Nguyễn Du dùng trong bài thơ này, chứ không phải nghĩa không là trống rỗng, không có gì hết, hay là hư không. Vì ở đây tác giả Trần Đình Sử hiểu chữ “giai không” có nghĩa là không trống rỗng, không có gì hết nên dịch sai chữ “cảnh”, và còn một chữ “Hà” trong câu thơ tác giả Trần Đình Sử bỏ không dịch, vì chữ hà theo ngôn ngữ Thiền thì nó là một chữ rất quan trọng trong việc tạo ra nghi tình cho hành giả khi tu tập. Theo ngôn ngữ Hán thì dịch như vậy không sai nhưng đối với thuật ngữ tư tưởng Phật giáo lại hoàn toàn sai và thiếu sót. Còn câu thơ tiếp Trần Đình sử dịch như vậy cũng chưa hoàn chỉnh mà còn xa lìa ý của cụ Nguyễn Du nữa. Ở đây theo Cụ, không lìa Thiền, tức là tâm của Cụ luôn luôn định một chỗ, đó là Thiền. Vậy Thiền ở đây là “Thiền sự” chứ không phải “Thiền ý” như tác giả đã dịch, vì Cụ đã và đang thực tập Thiền theo Kinh Kim Cương trong độc tụng như Cụ đã nói trong bài thơ. Vì vậy cho nên khi chúng ta nghiên cứu về một tác phẩm của một tác giả nào đó phải am hiểu hai việc mà chúng tôi đã nêu ra, nếu không việc nghiên cứu của chúng ta trở thành vô ích không có giá trị. Khi chúng ta viết về người khác thì phải trung thực với những liên hệ đối với tác giả đó về mọi mặt nếu có, nếu không vậy thì những nhận xét của chúng ta thiếu khách quan và trở thành những cưỡng ép chủ quan thiếu tính thuyết phục, tự biến mình thành những người thiếu liêm khiết tri thức.
Tóm lại qua bài thơ này cụ Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương và, cuối cùng kết quả đạt được là đã thấu triệt ngộ nhập được Không lý của Phật giáo để trở thành một Thiền sư thực thụ theo tính truyền thừa, cho dù không người để ấn chứng cho những sở ngộ của cụ vào lúc đó; nhưng với những gì Cụ đã để lại qua văn thơ đã nói lên được giá trị đích thực của một hành giả tu tập Thiền và những kết quả có được qua “Vô tự” thị chân kinh thì chúng ta không nghi ngờ gì nữa về giá trị đích thực của nó là một Thiền sư theo nghĩa như thực. Ở đây chúng tôi không phải làm cái việc “Thấy người sang bắt quàng làm họ.” mà đó chính là cái giá trị đích thực của một hành giả đã từng cưu mang “Thử tâm thường định bất ly Thiền” trong cuộc sống của Người. Và cũng nhờ cái giá trị đích thực này mà Cụ đã được những người đi sau tôn vinh như là người thông đạt sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời như Mộng Liên Đường chủ nhân đã khen qua truyện Kiều
[20]. Vì theo nhà Phật chỉ có những vị đạt ngộ mới thông hiểu được các pháp, mới thông suốt ba cõi, sáu đường và, tấm lòng mới nghĩ suốt cả nghìn đời mà thôi.



[1] Thái tử Chiêu Minh đời nhà Lương.
[2] Cát sông Hằng.
[3] Tập san Khai Trí Tiến Đức số 1. năm 1940.
[4] Khảo luận về “Truyện Thúy Kiều”. Quan hải tùng thư, Huế, 1943.
[5] Triết lý đạo Phật trong truyện Kiều, trong sách kỷ niệm 200 năm, năm sinh Nguyễn Du, NXB Khoa học xả hội, 1967.
[6] Thi pháp Truyện kiều, Trần Đình Sử, nhà xuất bản Giáo Dục, 2005.
[7] Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Đại sư đã lấy kinh Kim Cương cho các đệ tử dưới trướng của mình tu tập độc tụng và, Lục Tổ Huệ năng cũng nhờ vào cậu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (應 無 所 住 而 生 其 心) trong kinh Kim Cương mà ngộ lý thiền. Pháp bảo Đàn Kinh. Đ. 48.
[8] Giáo ngoại biệt truyền. Đ.84, tra. 166c.
[9] Thái tử Chiêu Minh đời nhà Lương.
[10] Kinh Kim Cương, bản Kinh mà cụ Nguyễn Du đã từng độc tụng hàng nghìn lần.
[11] Pháp bảo Đàn Kinh, Phẩm nghi Vấn, Đ. 48. tra. 351c
[12] Phẩm Phương tiện, Kinh Pháp Hoa, Đ. 09a, tra. 0007c
[13] Cát sông Hằng.
[14] Ngũ Đăng hội Nguyên. Đ. 80, tra. 0028b
[15] Pháp Bảo Đàn Kinh, Phẩm Hành Do
[16] Pháp Bảo Đàn Kinh, Phẩm Hành Do.
[17] Đ. 07, tra. 0749a. Kim Cương Bát-nhã kinh. Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng, (凡所有相,皆是虛妄)
[18] Đề Nhị Thanh động.
[19] Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật kinh. Đ.07, tra. 0749c
[20] “Tố Như Tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấy cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nài có cái bút lực ấy.” So sánh dị bản Truyện Kiều của Lê Quế, Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội 2006.

Read More
Người đăng: Phổ Đồng on Thứ Sáu, 27 tháng 6, 2008
0 nhận xét
categories: | | edit post

nhạc nền

Video - Phim

About Me

Ảnh của tôi
Từ vô thỉ ta luân hồi cát bụi, Vẫn miệt mài bám lấy cõi trần gian; Vẫn hít thở âm thầm yêu cuộc sống, Trần gian ơi nghe cát bụi mơ màn. Theo khát vọng ta trầm luân gót mỏi, Đếm đường dài vết cũ bụi chưa tan; Ngoảnh mặt lại khói sương mờ phong kín, Đường qua đi mất dấu tự phương ngàn. Ta dong ruỗi lạc loài theo nắng sớm, Cùng mưa chiều tan nát mộng dưới chân; Đất khẽ gọi con gió chiều đi vắng, Về tự tình đưa tiễn mộng nghìn năm. Nghe tan vỡ từ vô thường hoa nở, Nắng nghìn năm trưa buồn lạ trong hồn; Chiều ủ rũ qua nắng tàn trăng hiện, Từng giọt vàng rơi cõi đất mông lung. Vẫn hiện thực qua sắc màu biến đổi, Chuyện trăng tàn nhớ bóng ráng chiều phong; Tựa hơi thở buồn vui nào biết nổi, Cả một đời qua sinh diệt thời gian. Chợt một sớm rảnh rang nhìn đất thở, Đá cựa mình nghe dao động không gian; Như hoa đớm hạt nắng vàng ảo hóa, Giọt mong manh từng giọt đẹp vô ngần. Theo duyên hiện hóa thân vào vô tận, Duyên trùng trùng cho đến mãi vô chung.