Hình ảnh biểu tượng con trâu là một hình ảnh cụ thể sống động, đã từng được được Phật sử dụng trong những ngày cuối cùng để dạy các đệ tử của Ngài; nhằm canh giữ cái tâm của họ, cũng như canh giữ một con trâu. Đức Phật dạy:” Y như chăn trâu, cầm gậy canh chừng, không để nó buông lung phạm vào lúa mạ của người.” (kinh Di giáo). Và cũng từ đó, hình ảnh con trâu được các nhà Đại thừa, và các nhà Thiền tông Trung hoa sử dụng một cách linh động triệt để hơn. Như ngài Mã tổ-Đạo nhất hỏi Thạch củng:
- “Ông làm cái gì đây?”
Đáp:
- “Chăn trâu.”
Lại hỏi:
- “Chăn như thế nào?”
Đáp:
- “Mỗi khi nó chạy a vào đồng cỏ, thì xỏ muĩ kéo nó lại, thế là người chăn giỏi.”
Hoặc như ngài Phước châu-Đại an hỏi ngàì Bách trượng:
- “Tôi khát khao muốn hiểu Phật pháp, việc đó như thế nào?”
Bách trượng đáp:
- “Hệt như cỡi trâu tìm trâu!”
Hỏi:
- “Hiểu rồi như thế nào?”
Đáp:
- “Như người cỡi trâu về nhà.”
Hỏi:
“Rồi làm sao giữ cho trước sau khế hợp?”
Đáp:
- “Như người chăn trâu cầm roi giữ trâu mình, đừng cho phạm vào lúa mạ của người.”
Hay, Lặc đàm hỏi Linh thao:
- “Trước khi chưa xuất gia ông làm gì?”
Linh thao đáp:
- “Chăn trâu.”
Lặc đàm hỏi:
- “Chăn như thế nào?”
Linh thao đáp:
- “Sáng sớm cỡi đi, chiều tối cỡi về.”
Lặc đàm bảo:
- “Ông thật ngu si quá cỡ! Nhờ đó mà Linh thao đại ngộ.”
Hay, ngài Đại an dạy chúng rằng:
- “Đại an ba mươi năm ở Qui sơn, ăn cơm Qui sơn, đại tiểu tiện Qui sơn, mà chẳng học Thiền Qui sơn. Ngày đêm chỉ xem chừng một con trâu nước đen. Nếu nó đi lạc vào trong cỏ mạ, liền nắm mũi kéo lại. Vừa mới xâm phạm đến ruộng lúqa người ta, liền đưa roi ra quất. Thật đáng thương! Trâu bị điều phục lâu ngày trở nên thuần thục, vâng lời người dạy mắn. Giờ đây trâu đen đã hóa thành trâu trắng, sờ sờ rõ ràng trước mặt, trọn ngày đuổi cũng không đi.”
Hay, ngài Động sơn hỏi hòa thượng Long sơn:
“Hòa thượng thấy đạo lý gì mà trụ núi này?”
Long sơn đáp:
- “Ta chỉ thấy hai con trâu bùn húc nhau rồi chạy xuống biển. Từ đó đến nay vẫn chưa thấy tin tức gì cả.”
Và ngài Bạch vân-Nghĩa đoan hỏi Quách công phụ rằng:
- “Trâu thuần chưa?”
Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Mãi về sau này người ta mới vẽ thành tranh, và được gọi là:” Thập Mục Ngưu Đồ” . Tranh vẽ thập mục ngưu đồ này tuy nhiều, nhưng có thể xếp thành hai loại: Loại theo khuynh hướng Đại thừa, và loại theo khuynh hướng Thiền tông. Loại theo khuynh hướng Đại thừa vẽ lại quá trình công phu tu tập của hành giả. Trước hết phải tự thắng bản năng mình, sau đến tự tri, và cuối cùng đạt đến tự tại; còn khuynh hướng Thiền tông trình bày bước tiến tâm linh theo hình vẽ qua ba giai đoạn: sai tâm bắt tâm-tâm vô tâm-tâm bình thường.
Qua hình ảnh biểu tượng con trâu được trình bày. Từ hình ành biểu tượng một con trâu Ấn độ sang hình ảnh biểu tượng một con trâu Trung hoa, chúng ta thấy không có gì sai khác về hình thức cũng như nội dung trong việc” hàng phục tâm mình” mà con trâu là một biểu tượng. Như ở đây về mặt biểu tượng hình thức, chúng cũng có những nét độc đáo xuất hiện qua con trâu bùn của Long sơn. Tuy nhiên chúng không nói đến tiến trình tâm linh, mà chúng chỉ được sử dụng như một nghi án cho một công án. Nhưng từ hình ảnh biểu tượng con trâu đó, khi sang Việt Nam trên mặt hình thức, chúng chỉ còn là một con trâu đất, con trâu bùn hay con trâu đá không hơn không kém.
Vào cuối thế kỷ mười ba, người chăn giữ con trâu đầu tiên trong văn học Thiền Việt Nam chính là Thượng sỹ Tuệ trung. Ông đã chăn con trâu chính ông, mà ông đã phát hiện từ Qui sơn Trung hoa chòm xóm. Đây, chúng ta hãy theo dõi bài thơ Tuệ trung viết:



“Ngẫu hướng Qui sơn đắc đệ lân,
Hoang vu cam tác mục ngưu nhân;
Quốc vương đức trạch khoan nh7 hải,
Tùy phận ta ta thủy thản xuân.”
Dịch:
“Chợt hướng non qui được thảnh thơi,
Đồng hoang đành vậy giữ trâu chơi;
Nhà vua đức rộng như sông biển,
Tùy phận xuân về nước cỏ tươi.”
(Trúc thiên dịch)
Ở đây, chúng tôi không làm cái việc bình thơ như thông tục, mà chúng tôi chỉ làm cái việc theo dõi bước tiến tâm linh con trâu đất của Thượng sỹ Tuệ trung. Từ khi ông chợt thấy con trâu của Đại an ở Qui sơn chòm xóm; cũng từ đó ông cam chấp nhận làm kẻ chăn trâu cho chính mình, và biến hình ảnh biểu tượng con trâu ban đầu thành con trâu đất Việt Nam. Ông luôn luôn chạy theo nó, cho dù nó ở dưới bất cứ hình thức nào trong cát bụi, ông vẫn một mực là kẻ chăn. Chúng ta hãy theo dõi Thượng sỹ viết:



“Thiều thiều khoát bộ nhập trần lai,
Hoàng sắc mi đầu đảnh đảnh khai;
Bắc lý ưu du đầu mã phúc,
Đông gia tán đản nhập lư thai.
Kim tiên đả sấn nên ngưu tẩu,
Thiết sách khiên trừu thạch hổ hồi;
Tự đắc nhất triêu phong giải đống,
Bách hoa nhưng cựu lệ xuân đài.”
Dịch:
“Vào vòng cát bụi nhịp chân đưa,
Vàng óng đầu mi chớp chớp đùa;
Xóm bắc rong chơi gieo bụng ngựa,
Nhà đông vui bước nhập thai lừa.
Roi vàng đuổi mất trâu bùn chạy,
Gậy sắt lôi về cọp đá thua;
Rồi một ngày mai băng giá hết,
Trăm hoa như cũ rộn xuân xưa.”




Trên tay ông có roi vàng luôn luôn sẵn sàng giáng xuống, nếu trâu chạy bậy. Nhưng trâu nào chịu khuất phục, chỉ vì duyên bên ngoài quá hấp dẵn và lôi cuống nó, nên nó luôn luôn chạy bậy vào vùng đất cấm và, roi kia bỗng trở thành bất lực. Không cách nào khác hơn để khuất phục nó, chỉ còn có cách” Xỏ mũi dắt về chẳng nghỉ ngơi” mới có thể khuất phục được nó. Chúng ta theo dõi Thượng sỹ điều phục con trâu của chính mình:



“Nhất thân độc thủ nhất nê ngưu,
Đằng tỵ khiên lai vị khẳn hưu.
Tương đáo Tào khê đô phóng hạ,
Mang mang thủy cấp đả viên cầu.”
Dịch:
“Một mình cố giữ con trâu đất,
Xỏ mũi dắt về chẳng nghỉ ngơi.
Vừa đến Tào khê buông xuống hết,
Mênh mông nước chảy cuống bọt trôi.”




Thế là con trâu đất của Thượng sỹ đã bị Thượng sỹ điều phục, bằng cách xỏ mũi dắt về. Và cũng từ đó, hai hình ảnh người chăn và trâu đất không còn ngăn cách nữa, đã trở thành một. Chính cái một này nó được thể hiện là hai trong câu:” Tương đáo Tào khê đô phóng hạ.” Đây là hình ảnh” Nhân cảnh lưỡng câu đoạt” trong TỨ-LIỆU-GIẢN của ngài Lâm tế. Chính giây phút đô phóng hạ này là giây phút không giữ, mà không giữ thì có gì để buông, do đó không buông. Ở đây, chính thái độ KHÔNG GIỮ KHÔNG BUÔNG này là thái độ TỰ TẠI, cũng là hình ảnh:” Nhân cảnh câu bất đoạt.” Đây chính là âm thinh của khúc hát VÔ SINH của Thượng sỹ. Chúng ta hãy theo dõi” Người trâu đều không bị đoạt” trong cuộc sống tự tại của Thượng sỹ Tuệ trung qua bài thơ:



“Nhất khúc Vô sinh xướng liễu thì,
Đảm hoành tất lật cố hương qui.
Thượng đầu đả quá hồ hà hữu,
Nhất cá nê ngưu nhậm đảo ki (kỵ).
Dịch:
“Khi khúc vô sinh vừa hát xong,
Cầm ngang ống sáo về cố hương.
Vượt qua tất cả không chướng ngại,
Tự tại trâu bùn cỡi ngược dòng.”



Qua hình ảnh biểu tượng con trâu đất của Thượng sỹ Tuệ trung, đã cho chúng ta thấy bước tiến tâm linh của ông, từ khi mới phát hiện cho đến khi tự tại. Giờ đây chính là giai đoạn Thiền sư thỏng tay vào chợ, sống với đời mà không bị đời lôi kéo, an nhiên tự tại trong” Nhân cảnh câu bất đoạt” thể hiện qua bài ngâm cuồng phóng, và bài ngâm bĩu môi của ông. Vì hai bài ngâm quá dài, nên ở đây chúng tôi chỉ trích bốn câu cuối của mỗi bài cũng đủ nói lên cái tự tại của” Nhân cảnh câu bất đoạt” trong cuộc sống của Thượng sỹ Tuệ trung. Đây, chúng ta theo dõi bốn câu cuối của bài ngâm cuồng phóng:



“… Phóng tư đại hề, mạc bả tróc,
Liễu nhất sinh hề, hưu bôn mang.
Thích ngã nguyện hề, đắc ngã sở,
Sinh tử tương bức hề, ư ngã hà phương?”
Dịch:
“… Buông bốn đại chừ, đừng nắm bắt,
Tỉnh một đời chừ, chớ chạy rông.
Thõa nguyện ta chừ, đạt điều ta muốn,
Sống chết bức nhau chừ, làm gì được ta.”




Và đây là bốn câu cuối của bài ngâm Bĩu môi:



“… Đáo nhậm ma thì hề, lý sự toàn chương,
Đề trì phóng quá hề, hà tu nghĩ nghĩ.
Thạch ngưu dạ bán nhập hải đông,
Tràng trước san hô nguyệt như thủy.
Dịch:
“… Đến khi nao chừ, lý sự rõ ràng,
Nắm giữ buông xuôi chứ, cần gì lo nghĩ.
Nửa đêm trâu đá vào biển đông,
Khua động san hô ánh trăng như nước.”




Chuyện bốn đại chừ đâu còn can hệ chi với tâm trâu đất, và việc sống chết cũng chả làm được gì nó; vì nó giờ đây không còn lệ thuộc vào nhân qủa, cho nó nó sống trong nhân qủa đi chăng nữa. Vậy thì cái việc lý sự rõ ràng kia làm gì có được, trong khi chúng dung thông vô ngại, và việc giữ buông có can hệ gì đến Y. Y cứ như là một con trâu đất tự tại ra vào nào ai giữ được, cần gì phải nửa đêm hay không nửa đêm?
Tóm lại, ai muốn thấy được cái độc đáo trong con trâu đất của Tuệ trung, thì phải tham thấu lọt qua công án này, mới mong thấy được BẢN LAI DIỆN MỤC cuủa chính mình. Thí dụ có người hỏi Tuệ trung:
“Phật là gì?”
Thượng sỹ đáp:
“Con trâu đất. (công án của Đ.L.)”
Ở đây, nếu ai là người lanh cơ, thì con trâu đất của Thượng sỹ không còn đất đứng. Cũng có thể có người bị con trâu đất ám ảnh, nghi ngờ, và từ đó tạo ra mối nghi tình. Nếu họ biết cách đẩy mối nghi tình này đến chỗ cùng tột, không sớm thì muộn con trâu đất của Thượng sỹ cũng bị vỡ tung, và lúc đó mọi người mới thấy được cái độc đáo của con trâu đất. Còn không thì qua mấy trang giấy trên, quí vị sẽ không nhận ra chỗ độc đáo của con trâu đất đâu; vì chúng chỉ là trò chơi của ngôn ngữ, chúng chỉ có khả năng làm mờ mắt thiên hạ mà thôi.

Read More
Người đăng: Phổ Đồng on Thứ Tư, 23 tháng 1, 2008
0 nhận xét
categories: | | edit post

Viết về cụ Nguyễn Du mà chúng ta không nói đến lòng thương vô hạn của cụ đối với chính mình đối với tha nhân, đối với xã hội thì đó là một vấn đề thiếu sót; viết về Nguyễn Du mà không nói đến Phật giáo thì đó cũng là một thiếu sót quang trọng, vì toàn bộ sự nghiệp văn thơ của cụ đều phát xuất từ hai quan điểm này để từ đó cụ gởi gắm tâm sự của cụ lại cho người hậu thế. Vì vậy cho nên khi nghiên cứu về văn thơ của cụ thì bắt buộc chúng ta phải biết về nhân sinh của chính cụ và qua quan niệm khổ của Phật giáo. Theo giáo lý của đức Đạo sư thì nền tảng căn bản của việc học Phật được đặt trên ba học Giới-Định-Tuệ, cho nên Thiền định được coi như là một pháp môn tu học chung cho cả hai thừa Đại và Tiểu trong việc hoàn thiện ba nghiệp thâ-khẩu-ý thanh tịnh để chấm dứt khổ đau mà đức Đạo sư đã căn cứ vào những hiện tượng duyên khởi-hiện hữu-vô thường-biến dịch của nhân sinh và vũ trụ mà xác nhận rằng: “Thế gian là giả tạm, bất toàn, trống rỗng, là Dukkha (đau khổ)”. Ngay đến những trạng thái mà người đời cho rằng hạnh phúc an vui cũng luôn bị luật vô thường chi phối nên chúng chỉ là những trạng thái có được giả tạm không thật hữu, nên chúng cũng thuộc về Dukkha. Do đó, Dukkha bao gồm tất cả mọi ý nghĩa được quan niệm có được phát xuất từ ba phương diện: Khổ-khổ (Dukkha-dukkha), hoại-khổ (viparināma-dukkha), và hành-khổ (samkhāra-dukkha) [ba phương diện này chúng tôi đã giải thích phẩn dẫn nhập], bằng vào giải thoát khổ đau do ba nghiệp sinh ra, khi hành giả đạt được giải thoát hoàn toàn khổ đau thì tự nhiên an lạc hạnh phúc hiển bày.
Và theo cái học của Thiền thì gồm có: Thiền Thế gian, và Thiền Tiểu thừa - Thiền Đại thừa (Như lai Thiền) cuối cùng là Thiền của Tối thượng thừa (Tổ sư Thiền). Ba loại Thiền trước được y cứ vào văn tự của kinh điển để học và thực tập, nhưng riêng Tối thượng thừa Thiền thì không y cứ vào văn tự của kinh điển thông thường mà chỉ tạm mượn những kinh nào khế họp với căn cơ bén nhạy tạo ra những nghi tình bất hợp lý đối với thế trí biện thông của thế gian, cộng với những duyên sống để khai mở những vướng mắc của vô minh khổ đau cho hành giả mà thôi, nên Tổ sư Bồ-đề Đạt-ma đã chủ trương “Dĩ tâm truyền tâm, bất lập văn tự.[1]” Ở đây Nguyễn Du tiên sinh cũng đã từng học Thiền và thực tập thiền qua kinh Kim cương (một quyển Kinh mà Thiền tông Trung hoa mượn làm duyên, để y cứ cho những người mới bước chân vào Tối thượng thừa Thiền thực tập của Hoàng Mai ngũ tổ và, cũng nhờ Kinh Kim cương mà Tổ Huệ Năng thành vị tổ sư thứ sáu của Thiền tông Trung hoa[2]. Nhưng vì sao tiên sinh đã từng thực tập Thiền bằng cách độc tụng tư duy về kinh Kim cương hàng nghìn lần mà cũng vẫn chưa ngộ được chỗ rốt ráo của kinh, trong khi chỉ qua cái nhìn lại “dưới chân đài phân kinh” của Thái tử Lương Chiêu Minh xưa kia còn để lại, thì ngộ ra được cái bổn lai diện mục rốt ráo của Kinh Kim Cương chính “Vô Tự” thị chân kinh (Tối thượng thừa Thiền)? Thật ra ở đây cụ Tiên Điền, nếu trước đó đã không độc tụng hàng nghìn lần kinh Kim Cương thì chưa chắc qua cái nhìn đó cụ có thể ngộ ra được chỗ rốt ráo của kinh được! Nhưng chính nhờ đã huân tập hàng nghìn lần về nghi tình “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm, 應無所住而生其心”[3] (nên sinh tâm mình vào nơi không có chỗ trụ). Vậy nơi nào là nơi không có chỗ trụ? Đây chính là cái nghi tình được tạo ra bỡi thiền Công Án hay Tham Thoại Đầu của Tổ sư Thiền mà cụ đã được huân tập kinh qua đến mức vừa đầy; bây giờ chỉ cần giọt nước cuối cùng đổ vào nghi tình đó thì cái nghi tình đó sẽ bùng vỡ. Ở đây chính cái nhìn lại “Dưới chân đài phân kinh” là giọt nước cuối cùng để Tiên sinh ngộ ra được “Vô tự” chính là chân kinh, cũng chính là không chỗ trụ. Giờ đây đích thị Nguyễn Du tiên sinh đã trở thành một Thiền sư. Nhưng trước khi để trở thành một Thiền sư thì Nguyễn Du tiên sinh trước đó cụ đã kinh qua những năm tháng dài độc tụng tư duy, nghiền ngẫm về kinh Kim Cương, và trước đó nữa tuy chúng ta không biết được cụ đã học tập những kinh sách nào được ghi lại qua văn thơ, nhưng qua tư tưởng Phật giáo, mà cụ đã thể hiện trong văn thơ để lại ngoài truyện Kiều ra, cho chúng ta thấy rằng Phật giáo Tiểu thừa đã ăn sâu vào trong tiềm thức của cụ qua nhân quả báo ứng của mỗi cá thể được thay thế bỡi mệnh Trời, thể hiện tư tưởng nhân duyên sống của nhân sinh, qua đó chúng bị luật vô thường luôn chi phối đổi thay. Mệnh Trời ở trong truyện Kiều chỉ là một tiền đề được cụ nêu lên để đại diện cho một quan niệm của Nho giáo, bằng vào nhân bản tính qua tác nhân tạo nghiệp của con người theo luật tắc nhân quả báo ứng của Phật giáo mà phủ định đi tính siêu hình Định mệnh hay Thiên mệnh của Nho giáo, điều này nếu không muốn nói là điều sai lầm của Nho giáo mà cụ nhìn ra được. (việc này chúng tôi sẽ bàn kỹ qua nghiên cứu truyện Kiều).

1/ NGUYỄN DU VÀ CUỘC ĐỜI.

Qua tiểu sử của cụ, ngoại trừ mười năm của thời thơ ấu an ổn sống trong vòng tay của mẹ và gia đình tại Thăng Long, nhưng sau đó những biến cố cứ mãi dồn dập đổ lên đầu cậu bé Nguyễn Du: mười tuổi cha mất, mười hai tuổi mẹ lại qua đời không gì bất hạnh và đoạn trường hơn là làm đứa trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ vào cái tuổi đang còn ham chơi, đang cần chỗ nương tựa … và cũng từ đó bắt đầu cụ nếm mùi thăng trầm khổ ải tủi nhục trong nương nhờ ở tạm từ nơi này qua nơi khác và, cũng luôn tùy thuộc vào sự thăng trầm của những người thân. Việc đổi thay triều đại, việc lên voi xuống chó chỉ trong tích tắc và, những hậu quả đầy khổ đau tất yếu theo sau qua chánh báo (cá nhân) cùng y báo (gia đình-xã hội), đã nói lên được tính vô thường khổ đau luôn hiện hữu qua cuộc sống nhân sinh và riêng cá nhân cụ. Hơn bốn mươi ba năm còn lại trên cõi đời, trong khoảng thời gian này, ngoài mười năm giang hồ cát bụi, sống xa mái ấm gia đình lúc nào cụ cũng mang một nỗi buồn đau rộng lớn, thương mình, thương những người thân, thương cho những đồng loại phải chịu đày đọa khổ cực. Cửa nhà tan nát đổi thay trong kiếp người bên cạnh những đổi thay của ngoại cảnh thiên nhiên, thời thế loạn lạc chia ly, kế sinh nhai mịt mờ phía trước, thân phận ăn đậu ở nhờ tủi cực khôn nguôi, nỗi lo lắng luôn dằn vặt trong nếp tư duy suy nghĩ, đến nỗi mới ba mươi tuổi trên đầu mà tóc trắng bạc phơ, tư tưởng muốn sống nơi vắng vẻ vô sự cũng bắt đầu xuất hiện:

“… Hà năng lạc phát quy lâm khứ,
Ngọa thính tùng phong hưởng bán vân.”
何 能 落 髮 歸 林 去
臥 聽 松 風 響 半 雲
(Tự thán II)**
Dich:
… Làm sao xuống tóc về rừng ẩn,
Nằm nghe tùng hát gió đưa mây.”

Tư tưởng muốn xuống tóc vào rừng ở ẩn làm một người vô sự trước cuộc sống là một dấu hiệu tự quy hướng vế chính mình để dọn đường cho việc nghiên cứu Phật pháp và thực hành độc kinh Phật, trở thành một hành giả tu tập thiền sau này của cụ. Tư tưởng này xuất hiện trong khoảng thời gian mười năm lưu lạc giang hồ cát bụi đã hình thành qua những kinh nghiệm sống, kinh qua trong những đắng cay khổ nhục của cuộc sống lưu đày rày đây mai đó của một thân lữ thứ trên quê hương rộng mà không có nhà, có thể đây là thời gian từ năm 1786-1795. Sau mười năm lưu lạc giang hồ cụ đã trở về sống với núi rừng dưới chân núi Hồng Lĩnh bên dòng Lam giang và, cuối cùng cũng không tránh được phải ra làm quan với một thái độ bất đắc dĩ, để từ đó cụ ghi lại cuộc đời mình qua những vần thơ chữ Hán đầy thương đau và buồn chán, nghiệt ngã cho chính mình và tha nhân cùng xã hội. Những hình ảnh cụ ghi lại qua thơ văn không ngoài cái quan niệm vô thường-khổ-không của Phật giáo như trên chúng tôi đã trình bày đối với cuộc đời qua khổ-khổ, hoại khổ, hành khổ, đầy ngậm ngùi đớn đau, đầy xúc động trong một cái nhìn sâu xa từ hiện tượng đến bản chất của chúng. Cái nhìn tận căn đẽ này chính là cái nhìn chánh kiến của Phật giáo, từ mê qua ngộ. Khi là mê thì các pháp trở thành pháp thế gian, pháp hữu lậu, pháp khổ đau; còn khi chúng ta ngộ ra rồi thì các pháp này trở thành pháp xuất thế gian, pháp vô lậu, pháp an vui giải thoát.
Từ một cậu bé tuổi vừa lên năm đã theo gia đình về quê nội tại Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh dưới núi Hồng Lĩnh, cạnh sông Lam, khi cha mình cáo lão từ quan về quê vào năm Tân mão 1771[4]. Đây là dấu hiệu mở màn của bước chân đầu cho những bước phong trần khổ ải sau này của cụ. Sau khi cậu bé Nguyễn Du theo cha và gia đình về quê thì, năm năm sau người cha mất đi và, tiếp hai năm nữa là mất luôn cả người mẹ thân yêu. Bây giờ cậu bé Nguyễn Du thật sự đã trở thành trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ; mới mười hai tuổi đầu mà cậu bé phải chịu một nỗi mất mát đớn đau đoạn trường đến thế thì cuộc đời của cậu sẽ ra sao sau này? Đây là những kí ức được Nguyễn Du tiên sinh ghi lại khi nhớ lại ngày mới bước chân về lại làng quê nội trên bến Giang Đình cùng cha mình và gia đình, trong đó có cậu bé Nguyễn Du lúc 5 tuổi và, từ đó cho đến những năm biến động sau này cho cả gia đình và cá nhân cậu bé. Những hình ảnh đó và những biến động trong cuộc sống của gia đình sau này được cụ ghi lại một cách tổng quát, nhưng chúng nói lên được cái quan niệm vô thường-khổ đau của đạo Phật luôn hiện hữu trong cuộc sống và, chính cụ là người đã trải qua và kinh nghiệm trong cuộc sống của chính mình, của gia đình, của xã hội qua bài thơ Giang Đình hữu cảm:

“Ức tích ngô ông tạ lão thì,
Phiêu phiêu bồ tứ thử giang mi.
Tiên chu kích thủy thần long đấu,
Bảo cái phù không thụy hạc phi.
Nhất tự y thường vô mịch xứ,
Lưỡng đê yên thảo bất thăng bi.
Bách niên đa thiểu thương tâm sự,
Cận nhật trường an đại dĩ phi.[5]
憶 昔 吾 翁 謝 老 時
飄 飄 蒲 駟 此 江 湄
仙 舟 激 水 神 龍 鬥
寶 蓋 浮 空 瑞 鶴 飛
一 自 衣 裳 無 覓 處
兩 隄 煙 草 不 勝 悲
百 年 多 少 傷 心 事
近 日 長 安 大 已 非
(Giang Đình hữu cảm)
Dịch:
Nhớ lúc xưa, cha ta cáo lão,
Tấp nập ngựa xe bến sông này.
Thuyền tiên rẽ nước rồng giao đấu,
Lọng quý trên không hạc gieo lành.
Từ khi xiêm áo không tìm thấy,
Khói cỏ đôi bờ chịu bi thương.
Cận nhật kinh thành nhiều khác lạ,
Trăm năm nhiều ít chuyện thương tâm!

Qua bài thơ này Nguyễn Du tiên sinh đã ghi lại những kí ức những cảnh tượng đã xảy ra khi cha cáo lão từ quan về làng, khi mình còn là một cậu bé vừa lên năm nào ngựa xe trên bến dưới thuyền, cờ lọng quý che phủ rợp trời cho đến khi áo xiêm lộng lẫy không còn tìm thấy nữa và, những biến động gia đình xảy ra sau đó; mọi việc vô thường đều đổi thay một cách nhanh chóng, từ hình thức trạng thái tâm lý này đổi sang hính thức trạng thái tâm lý khác. Ngay đến khói cỏ bên đôi bờ đê không còn xanh nữa mà đã theo lòng người bi thương không kém và, những biến động khác thường nơi kinh đô cũng thay đổi. Lòng người thay đổi, thế sự đổi thay. Từ những thay đổi này: nếu là lìa xa những người chúng ta thương yêu quí mến như cha mẹ, anh chị em, bà con quyến thuộc bạn bè và, những hoàn cảnh yêu thích của ta (thuộc về ái biệt ly); cùng những gì mà chúng ta mong muốn đạt được: như mong cùng chung sống với nhau, không chia lìa ngăn cách, nhưng chúng không thuận tình với mong ước của chúng ta (thuộc về cầu bất đắc) thì, tất cả những điều đó mang đến cho cá nhân Nguyễn Du tiên sinh và cả cho chúng ta những đều đau khổ thương tâm hết.
Trên là những nét chấm phá về cuộc đời long đong chìm nổi khổ đau mà Nguyễn Du tiên sinh đã kinh qua và nhìn thấy ngay trong cuộc sống của chính mình và tha nhơn trong xã hội. Trước hết cá nhân tiên sinh đối với với gia đình anh em họ hàng thân thích và, nơi quê hương cố chủ; vì biến cố gia đình: cha mẹ mất sớm sau đó mang đến tình trạng gia đình ly tán, thậm chí đến nơi ở cũng không còn nữa. Ngay bản thân của Nguyễn Du tiên sinh phải cậy nhờ vào anh em cùng những thân nhân khác mà sống lay lất qua ngày. Thời gian ly tán này (ái biệt ly) là một thời gian tạo ra những biến động về tâm lý cho cậu bé Nguyễn Du, một cảm thức đau khổ về nỗi chia ly và một mặc cảm ăn nhờ ở đậu sinh ra đau buồn và hận cho chính thân mình không làm gì được trong khi đầu đã bạc mà thời gian cứ qua đi:

“… Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán,
Bạch đầu đa hận tuế thời thiên …”
鴻 嶺 無 家 兄 弟 散
白 頭 多 恨 歲 時 遷
(Quỳnh Hải nguyên tiêu)[6]
Dịch:
… Hồng Lĩnh không nhà anh em vắng,
Bạc đầu hận lắm tháng năm qua…
hay:
“ … Cố hương đệ muội âm hao tuyệt,
Bất kiến bình an nhất chỉ thư.”
故 鄉 弟 妹 音 耗 絕
不 見 平 安 一 紙 書
(Sơn cư mạn hứng)**
Dịch:
… Đệ muội quê nhà bặt âm tín,
Thư báo bình an chẳng thấy nào!

Từ ly tán cửa nhà, anh em mỗi người mỗi ngả theo sự thăng trầm của chánh báo và y báo, vì vậy tin tức quê nhà và cả anh em cũng bặt vô âm tín. Đây là một thứ tình cảm mong muốn được tin nhau, được gặp lại nhau mà không được nên mang bộ mặt “Cầu bất đắc”, thì sẽ sinh ra khổ đau, từ đó:

“ … Nhất phiền hương tâm thiềm ảnh hạ,
Kinh niên biệt lệ nhạn thinh sơ…”
一 片 鄉 心 蟾 影 下
經 年 別 淚 雁 聲 初
(Sơn cư mạn hứng)**
Dịch:
… Bao năm lệ biệt đầu tiếng nhạn
Một tấm lòng quê nhớ dưới ánh trăng…
Hay:
“ … Ky lữ đa niên đăng hạ lệ,
Gia hương thiên lý nguyệt trung tâm…”
羈 旅 多 年 燈 下 淚
家 鄉 千 里 月 中 心
(Xuân dạ)**
Dịch:
… Bao năm làm khách đèn chong lệ,
Nghìn dặm quê nhà trăng dõi tâm …

Lệ nhỏ dưới đèn, dưới trăng biểu hiện cho hình ảnh cụ Nguyễn Du đang là người lữ khách sống nương nơi quê người, một thân một mình cô độc vào những lúc nhớ nhà, nhớ quê, nhớ người thân mà không được toại nguyện trong việc gặp lại nên phải âm thầm chịu đựng nỗi dày vò thương nhớ khổ đau. Nó là hình ảnh giải tỏa nỗi nhớ nhung khổ nhục qua giọt lệ âm thầm rơi dưới đèn dưới trăng; chỉ có đèn và trăng là vật chứng giám nỗi niềm riêng tư cho lữ khách. Cho dù cụ lúc nào cũng nghĩ nhớ đến quê nhà, nhưng không có cách nào để giải quyết nỗi nhớ thương đó nên đành chấp nhận nó như chấp nhận nỗi bất hạnh của chính mình:

“… Hành nhân hồi thủ xứ,
Vô ná cố hương sầu.”
行 人 回 首 處
無 那 故 鄉 愁
(Tái du Tam Điệp sơn)**
Dịch:
“… Người đi quay đầu nhìn quê cũ,
Đành vậy! thương sầu cố hương thôi.”

Đành chấp nhận thân tàn xin gởi quê người, vì thân xác này trở thành trở ngại cho việc đi đứng trở về thăm quê, nhưng hồn người, tư tưởng người không phải là vật có chất ngại nên tự do tự tại trong việc đi về thăm viếng cố hương. Đây cũng là một hình thức để an ủi và chia sẻ làm vơi đi nỗi thương nhớ vì xa quê:

“… Đỗ vũ nhât thinh xuân khứ hỉ,
Hồn hề quy lai bi cố hương.”
杜 宇 一 聲 春 去 矣
魂 兮 歸 來 悲 故 鄉
(Ngẫu thư công quán bích I)**
Dịch:
… Một tiếng cuốc kêu xuân đã qua,
Hồn ơi về lại, thương cố hương.”

Và cứ như vậy nỗi thương nhớ quê nhà cứ dày vò tâm hồn và thân xác cụ như vậy là mười năm trường, vẫn là kẻ khách lữ phong trần tha phương cầu thực, sống bám nhờ vào người, trong khi trên đầu tóc bạc lại bạc thêm:

“Thập tải phong trần khứ quốc xa,
Tiêu tiêu bạch phát ký nhân gia…”
十 載 風 塵 去 國 賒
蕭 蕭 白 髮 寄 人 家
(U cư II)**
Dịch:
Mười năm gió bụi quê xa cách,
Tóc bạc phất phơ cậy nhà người…”

Mười năm gió bụi khổ đau thương nhớ cũng đủ đề cho cụ nhìn rõ ra được chân tướng của cuộc đời qua khía cạnh “ái biệt ly” là khổ, “cầu bất đắc” là khổ. Đây chỉ mới là hai khía cạnh của tám khía cạnh khổ theo đức Đạo sư đã dạy. Trong thời gian mười năm giang hồ cát bụi và, những năm còn lại trên cõi đời cụ còn có những nỗi khổ khác nữa được thể hiện qua trong cuộc sống như: Sống, già, bệnh, tử[7], oán thù đối mặt nhau, năm uẩn không đều hòa. Đây là những hiện tượng tất yếu phải kinh qua của đời người cho bất cứ một cá nhân nào hiện hữu thì phải bước qua và, chúng cũng trở thành những nguyên nhân đưa đến những kết quả khổ đau khác trong cuộc đời mà cá nhân cụ và mọi người phải gánh chịu: Hoàn cảnh loạn lạc của chiến tranh cũng đưa đến chia lìa chết chóc người thân, tan nát nhà cửa về gia đình cũng như xã hội về măt kinh tế, chúng là hậu quả của “Oán tắng hội” sinh ra đau khổ đổ lệ u hoài cho kiếp người;

“… Tang tử binh tiền thiên lý lệ,
Thân bằng đăng hạ sổ hàng thư
Ngư long lãnh lạc nhàn thu da,
Bách chủng u hoài vị nhất sư.”
桑 梓 乒 前 千 里 淚
親 朋 燈 下 數 行 書
魚 龍 冷 落 閒 秋 夜
百 種 幽 懷 未 一 攄
(Bát muộn)**
Dịch:
… Bà con dưới đèn vài tin nhắn,
Quê nhà binh lửa, lệ rơi xa
Đêm thu tịch mịch cá rồng lặng
Trăm mối u hoài một chưa vơi.”

Ai trong chúng ta không lo không sợ cho những người thân yêu của mình trước cơn binh lửa nơi quê nhà, khi chúng ta từ nghìn dặm xa không giúp gì được cho họ, chỉ biết cầu nguyện và dùng nước mắt của mình để tạm vơi đi niềm đau khổ đang dày vò; trong khi đó cụ ở xa quê cũng phải kiên dè và sợ sệt lẫn nhau khi ở quê người.

“… Dị hương dưỡng chuyết sơ phòng tục,
Loạn thế toàn sinh cửu úy nhơn …”
異 鄉 養 拙 初 防 俗
亂 世 全 生 久 畏 人
(U cư I)**
Dịch:
… Quê người tỏ vụng phòng thế tục,
Đời loạn luôn sanh sợ mọi người…”

Đây là một kế sống an toàn dành cho những nạn nhân tha hương của thời thế loạn lạc, kẽo không vô tình sẽ làm đối tượng cho mọi sự đối đầu thù địch nghi ngờ. Hay chiến tranh loạn lạc cũng có thể đưa người về cõi chết hay tù tội, điều đó chúng ta không thể nào lường trước được. Ngay bản thân cụ Tiên điền Nguyễn Du cũng là nạn nhân của tù tội do oán ghét chế độ Tây sơn đang hiện hữu trước mắt cụ vào lúc bấy giờ mà ra:

“ … Tứ hải phong trần gia quốc lệ,
Thập tuần lao ngục tử sinh tâm …”
四 海 風 塵 家 國 淚
十 旬 牢 獄 死 生 心
(Mỵ trung mạn hứng)**
dịch:
Gió bụi khởi khắp nơi, lệ nước nhà,
Lao ngục mười tuần, lòng lo sống chết …”

Chỉ có ngục tù Nguyễn Du tiên sinh mới có đủ thời gian để ngồi tư duy suy nghĩ về nỗi sống chết. Con người thì ai cũng có tâm lý ham sống sợ chết, đó là một thứ tâm lý bình thường, nhưng đối với cụ vì một chút tâm sự không biết ngõ cùng ai, vì nó sâu thẳm như dòng Quế giang dưới chân núi Hồng Lĩnh, đó chính là nỗi khổ tâm của cụ:

“… Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ,
Hồng sơn sơn hạ Quế giang thâm.”
我 有 寸 心 無 與 語
鴻 山 山 下 桂 江 深
(Mỵ trung mạn hứng)**
Dịch:
Ta có tấc lòng không biết bày tỏ cùng ai,
Vì nó sâu thẳm như sông Lam dưới núi Hồng.

Tấc lòng sâu thẳm như thế nào mà không biết đem nó ra để bày tỏ cùng ai? Cái sâu thẳm ở đây vì nguy hiểm khó nói ra, hay là cái sâu thẳm không ai dò biết được như đáy dòng sâu Lam dưới núi Hồng? Ở đây đối với cụ Nguyễn Du chúng ta có thể hiểu theo nghĩa nào cũng được, vì hiện thực một nghĩa và cũng có thế: “Bất tri tam bách dư niên hậu, thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.” Đó là những nỗi đau của riêng cá nhân cụ Nguyễn Du; nhưng cũng có thể là nỗi đau chung của mọi người qua kiếp người. Thật ra cuộc đời đâu chỉ giới hạn trong những trạng huống có thể gây ra đau khổ như vậy đâu (nhơn tai), mà còn nữa: Nào là cái đau khổ vỉ thiên nhiên (thiên tai) có thể ập đến cho chúng ta bất cử giờ phút nào:

“… Cố hương hạn cửu phương nông,
Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng …”
故 鄉 亢 旱 久 妨 農
十 口 孩 兒 菜 色 同
(Ngẫu hứng IV)**
Dịch:
… Cố hương hạn hán hại nhà nông,
Mười đứa con thơ mặt xanh rờn…

Một thân một mình nơi tha hương đất khách, nhưng cụ vẫn canh cánh bên lòng về mười đứa con thơ tại quê nhà lâm vào thiên tai hạn hán mất mùa, không đủ cái ăn cái mặc, thân thể xanh như lá rau, không sắc tố hồng cầu do thiếu ăn. Và có gì đau khổ lo lắng hơn khi thân đang mang bệnh nặng nằm liệt giường, còn phải lo cái ăn cho mười miệng trẻ đang đói chờ ăn từ nơi quê nhà đang réo gọi nữa!

“… Thập khẩu đề cơ hoành lĩnh bắc,
Nhất thân ngọa bệnh đế thành động …”
十 口 啼 饑 橫 嶺 北
一 身 臥 病 帝 城 東
(Ngẫu đề)**
Dịch:
… Mười miệng đòi ăn, bắc hoành sơn,
Một thân nằm bệnh, đông kinh thành …

Một thân một mình nơi đất khách lại bị bệnh, người thân không có, bạn bè mới nơi ở cũng không nhiều nên đành âm thầm chịu đựng với con bệnh cũ dằn dai, cô đơn buồn khổ trong những ngày xuân:

“Trường đồ nhựt mộ tân du thiểu,
Nhất thất xuân hàn cựu bệnh đa…”
長 途 日 暮 新 遊 少
一 室 春 寒 舊 病 多
(U cư II)**
Dịch:
Đường dài chiều tối, bạn mới ít,
Xuân lạnh một nhà bệnh cũ mang…

Trong khi sống nơi đất khách quê người thân thì nhiều bệnh tật, tâm thì lúc nào cũng buồn bực, nhưng khi cụ đã về lại quê nhà rồi mà bệnh tật càng ngày càng tăng chứ không giảm và nổi buồn đau cũng theo đó mà tăng thêm, càng ngày bệnh càng trầm trọng hơn:

“Đa bệnh đa sầu khí bất thư,
Thập tuần khốn ngọa Quế giang cư …”
多 病 多 愁 氣 不 舒
十 旬 困 臥 桂 江 居
(Ngọa bệnh I)**
Dịch:
Mười tuần nằm khổ bên sông Quế
Nhiều bệnh nhiều sầu khí chẳng thông…

Không có buồn nào bằng cái buồn người bị bệnh nặng mà không người chăm sóc hỏi han và, như vậy bệnh càng nặng hơn. Nhiều lúc buồn quá cụ Nguyễn Du phải nghĩ đến làm sao tìm loại thuốc tiên nào để cụ uống cho mau lành bệnh, hoặc xin thấy được ánh sáng vi diệu hiển hiện chiếu xuống cõi trần gian phá tan màng u ám cho nhân loại được nhờ:

“… Thập niên túc tật vô nhân vấn,
Cửu chuyển hoàn đan hà xứ tầm.
An đắc huyền quang minh nguyệt hiện,
Dương quang hạ chiếu phá quần âm.”
十 年 夙 疾 無 人 問
九 轉 還 丹 何 處 尋
安 得 玄 關 明 月 見
陽 光 下 照 破 群 陰
(Ngọa bệnh II)**
Dịch:
Mười năm tật bệnh không người hỏi,
Tìm đâu thuốc tiên luyện chín lần?
Mong hiện ánh sáng trăng màu nhiệm,
Ánh dương chiếu xuống phá quần âm.

Qua những bài thơ trích đoạn ở trên, chúng tôi chỉ trích ra một ít trong những số bài thơ chữ Hán được cụ Nguyễn Du gởi gắm tâm sự của mình vào những khổ đau buồn thương nỗi nhớ mà cụ đã trải qua trong những biến động của gia đình trong loạn lạc chia ly, nhà tan cửa nát, con thơ nheo nhóc đói khổ, thiên tai hạn hán, chiến tranh, tù tội, tật bệnh vây quanh suốt kiếp người cụ Nguyễn Du cũng như mọi người trong chúng ta. Chúng là những nguyên nhân đưa đến khổ đau cho nhân thế. Ở đây là những nguyên nhân trực tiếp giáng xuống đầu người, chúng có thể nhìn thấy rõ được:

“Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên,
Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên.
xuân lan thu cúc thành hư sự,
hạ thử đông hàn đoạt thiếu niên.”
壯 士 白 頭 悲 向ẻ 天
雄 心 生 計 兩 茫 然
春 蘭 秋 菊 成 虛 事
夏 暑 冬 寒 奪 少 年
(tạp thi I)**
Dịch:
Nhìn trời tráng sĩ buồn đầu bạc,
Kế sống, hùng tâm vẫn mịt mờ.
Xuân lan thu cúc thành chuyện huyễn,
Hạ nóng đông hàn cướp tuổi hoa.”

Những điều đó cụ Nguyễn Du cũng không ngoài ngoại lệ. Cụ buồn đau vì chí lớn, kế sống riêng cá nhân mình vẫn còn mờ mịt, cộng thêm gia đình ly tán mỗi người vì miếng cơm manh áo mà phải lầm than phiêu bạc khắp nơi nên đầu đã bạc lại bạc thêm. Đây là những điều mà chính Nguyễn Du tiên sinh đang kinh qua và chứng kiến trong chính cuộc đời của cụ, nỗi khổ đau buồn lo đến đỗi mới ba mươi tuổi mà đầu đã bạc trắng, trong khi công danh sự nghiệp chưa thành qua bài thơ “tự thán” cụ viết;

“Sinh vị thành danh thân dĩ suy,
Tiêu tiêu bạch phát mộ phong xuy.”
生 未 成 名 身 已 衰
蕭 蕭 白 髮 暮 風 吹
(Tự thán I)**
Dịch:
Sống chưa thành danh thân đã suy
Lưa thưa tóc bạc gió chiều lay.

Chính vô thường mang lại cho chúng ta cái khổ đau. Qua đó, vì tâm tư ý nghĩ vô thường luôn luôn thay đổi (tâm vô thường), vì hoàn cảnh hiện tượng, vật chất chung quanh cuộc sống chúng ta vô thường luôn thay đổi (vật vô thường) chúng ta không giữ được, nên sinh ra đau khổ cho mọi người như chúng ta đã thấy qua những lời dạy của đức Đạo sư. Nguyễn Du tiên sinh thời gian nương nhờ nơi Quỳnh Hải, Cụ đau lòng khi nhìn đám cỏ xanh nơi quê người khi mùa xuân đến mà liên tưởng nhớ về Nam Phổ, nhìn nụ hàn mai mà nghĩ đến mùa xuân qua bài Xuân nhật ngẫu hứng.

“… Nam phố thương tâm khan lục thảo,
Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai ...”
南 浦 傷 心 看 綠 草
東 皇 生 意 漏 寒 梅
(Xuân nhật ngẫu hứng)**
Dịch:
Nhìn cỏ xanh thương tâm Nam Phổ,
Nhú mai vàng chớm ý Đông Quân…

Nhưng còn những nguyên nhân giáng tiếp mà chúng ta trong nhất thời khó hình dung ra được, đối với Cụ, Cụ nhìn thấy tất cả từ hiện tượng bên ngoài đến bản chất bên trong, đó chính là vô thường biến hoại, là thủ phạm chính cho mọi bất toàn trong cuộc sống của chúng ta, tạo ra không biết bao nhiêu là khổ nạn cho kiếp người:

“… Cổ kim vị kiến thiên niên quốc,
Hình thế không lưu bách chiến danh.
Mạc hướng thanh hoa thôn khẩu vọng,
Điệp sơn bất cải cựu thời thanh.”
古 今 未 見 千 年 國
形 勢 空 留 百 戰 名
莫 向 清 華 村 口 望
疊 山 不 改 舊 時 青
(Vị Hoàng doanh)**
Dich:
Nước nghìn năm xưa nay chưa thấy,
Hình thể mất, còn danh trăm trận.
Đừng ngóng nhìn thôn Thanh Hoa nữa,
Điệp sơn như ngày nào vẫn xanh.

Triều đại nào tồn tại nghìn năm chúng ta chưa thấy! Ngay đến doanh trại Vị Hoàng ngày xưa là nơi đóng quân trấn giữ đời nhà Lê; nhưng nay hình thể quân trại không còn nữa, mà chỉ còn trên cái danh là nơi xưa kia đã từng xảy ra trăm trận chiến thôi. Đừng nhìn những cảnh đổi thay đó nữa mà hãy nhìn rặng Điệp sơn vẫn còn xanh như ngày nào! Bản chất của màu xanh thì không bao giờ thay đổi, nhưng chỉ thay đồi nơi hiện tượng hình dáng bên ngoài thôi. cũng giống như Triều đại thì có thể thay vua đổi chúa, thay đổi chế độ, chứ còn dân tộc đất nước thì muôn đời không đổi vì nó là bản chất. Trong cuộc sống có những thay đổi bình thường về hình thức chúng ta thấy được, nhưng cũng có những biến đổi tinh thần chúng ta không nhìn thấy được, vì nó thuộc về vô hình. còn hiện tượng thì luôn tùy thuộc vào thời gian mà thay đổi như:

“ Đào hoa đào diệp lạc phân phân,
Môn yềm tà phi nhất viện bần.
Trú cửu đốn vong thân thị khách,
Niên thâm cánh giác lão tùy thân…”
桃 花 桃 葉 落 紛 紛
門 掩 斜 扉 一 院 貧
住 久 頓 忘 身 是 客
年 深 更 覺 老 隨 身
(U cư I)**
Dịch:
Hoa lá cây đào rơi lác đát,
Nhà nghèo cổng đóng cửa liêu xiêu.
Ở lâu quên hẵn mình là khách,
Năm tháng càng qua thân càng già…”

Những hiện tượng như lá đào hao đào, cổng đóng, cửa liêu xiêu chúng ta có thể dùng mắt để thấy được cái thay đổi của nó; nhưng thời gian qua đi thì chúng ta khó mà hình dung được sự thay đổi này trong nguyên nhân, mà chỉ nhìn được qua kết quả của nó chúng ta mới nhận thấy được sự thay đổi của chúng. Thời gian vô thường đã tác hại và biến hoại tất cả từ con người đến mọi vật xung quanh trong cuộc sống, không gì là không bị lệ thuộc vào chúng: Hoa lá cây trái, nhà cửa, thân người nói chung là chỉ cho vật chất vật lý v.v… không gì không bị biến hoại thay đổi:

“Thập tải trần ai ám ngọc trừ,
Bách niên thành phủ bán hoang khư…”
十 載 塵 埃 暗 玉 除
百 年 城 府 半 荒 墟
(Bát muộn)**
Dịch:
“Mười năm bụi phủ mờ thềm ngọc,
Thành quách trăm năm nửa hoang tàn…”
Hay:
“…Thành quách suy di nhận sự cải,
Kỷ xứ tang điền biến thương hải…”
城 郭 推 移 人 事 改
幾 處 桑 田 變 滄 海
(Long Thành cầm giả ca)**
Dịch:
Thành quách đổi thay việc người đổi,
Bao cảnh ruộng dâu biến biển khơi…

Vô thường biến đổi luôn tạo ra những cú sốc đau cho những người cố chấp luôn muốn sở hữu mọi thứ về cho mình, cho bản ngã, cho cái ta trường tồn bất diệt mà nuôi lớn lòng tham lam, sân hận, si mê; biến chúng ta thành những kẻ nô lệ cho chúng mà đẻ ra không biết là bao nhiêu đau khổ đắng cay cho chúng ta, nhưng cuối cùng chúng ta sẽ được gì khi chúng ta nhắm mắt buông tay, cũng chỉ hai bàn tay trắng. Nguyễn Du tiên sinh đã nhìn ra được bản chất của mọi sự vật là vô thường mang đến khổ đau nên đã khuyên chúng ta:

“Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thành,
Do thị Thăng Long cựu đế kinh.
Cù hạn tứ khai mê cựu tích,
Quản huyền nhất biến tạp tân thanh.
Thiên niên phú quý cung tranh đoạt,
Tảo tuế thân bằng bán tử sinh.
Thế sự phù trầm hưu thán tức,
Tự gia đầu bạch diệt tinh tinh.[8]
古 時 明 月 照 新 城
由 是 昇 龍 舊 帝 京
衢 巷 四 開 迷 舊 跡
管 弦 一 變 雜 新 聲
千 年 富 貴 供 爭 奪
早 歲 親 朋 半 死 生
世 事 浮 沈 休 嘆 息
自 家 頭 白 亦 星 星。
(Thăng Long 2)
Quách Tấn dịch:
Thành mới trăng xưa bóng tỏ mờ
Thăng Long nghìn trước chốn kinh đô
Dấu xưa khuất lấp đường xe ngựa
Ðiệu mới xô bồ nhịp trúc tơ
Danh lợi mồi ngon đua cướp giựt
Bạn bè lớp trước sống lưa thưa
Nổi chìm thế sự đừng tham nữa
Mái tóc mình đây cũng bạc phơ

Danh lợi quyền lực là những món mồi khá hấp dẫn đối với những ai ham danh lợi và quyền lực; rốt cuộc những thứ đó cuối cùng cũng để nuôi lớn lòng tham lợi, tham danh, tham quyền lực nuôi lớn bản ngã chúng ta mà thôi. Nhưng có ai trong chúng ta được cái này rồi mà không muốn đạt được cái nhiều hơn, cao hơn để bỏ đầy túi tham của mình không? Tâm lý thông thường của chúng ta là “được voi đòi tiên,” hay “đứng núi này trông núi nọ”, cũng với mục đích là để thõa mãn lòng thanh danh, tham lợi, muốn biến mọi vật chung quanh thuộc về sở hữu cá nhân mình, gia đình mình … Nhưng càng chạy theo nó thì những khổ nhọc cay đắng càng theo sau và, những oán đối củng tùy theo đó mà hình thành tạo thành nghiệp nhân oán đối với tha nhân theo sau đó. Chúng ta còn được gì sau khi nhắm mắt xuôi tay? cũng chỉ:

“… Bá đồ dẫn diệt thiên niên hậu,
Cổ mộ hoàn lương tam xích thu…”
伯 圖 泯 滅 千 年 後
古 墓 荒 涼 三 尺 秋
(Á phụ mộ)[9]
Dịch:
Mộ xưa ba thước thu cỏ lạnh
Nghiệp bá tan tành sau nghìn năm.

Theo Nguyễn Du tiên sinh thì, sự nghiệp đồ vương cũng tan tành theo mây khói nghìn năm sau, xác thân nằm đưới ba thước đất, cỏ lạnh úa tàn bao phủ mùa thu chỉ còn lại là một nấm mồ cổ, nhiều khi không người coi sóc hoang phế điêu tàn, không một ai thấy mà không khởi lên tấm lòng hoài cổ thương tâm, đối với những đổi thay biến hoại của những vật thể có hình thì có hoại diệt, không có gì tồn tại mãi trên thế gian này. Tuy chúng tạo cho mọi người trong chúng ta những cú sốc, những vết thương lòng nhức nhối, những nỗi đau khổ triền miên; nhưng chúng ta phải nhìn lại chính chúng ta đã làm được gì trước định luật vô thường biến đổi luôn luôn đó, trong khi mỗi ngày qua đi tóc trên đầu chúng ta lại bạc thêm giỏi lắm cũng chỉ đến trăm năm!:

“… Thế sự phù trầm hưu thán tức,
Tự gia đầu bạch diệc tinh tinh.”
世 事 浮 沈 休 嘆 息
自 家 頭 白 亦 星 星
(Thăng Long II)**
Dịch:
… Thôi đừng than thở chuyện đời chìm nổi,
Tóc bạc đầu mình từng sợi bạc phơ.

Cũng cái nhìn lại chính mình này đã cảnh tĩnh được chính cụ trong cuộc sống tang thương đầy khổ cực này. Cho dù cái khổ về vật chất hay tinh thần đến đâu đi nữa cũng không làm cho cụ biến được bản chất chính con người cụ:

“… Phong trần đội lý lưu bì cốt
Khách chẩm tiêu tiêu lưỡng mấn bồng.”
風 塵 隊 裏 留 皮 骨
客 枕 蕭 蕭 兩 鬢 蓬
(Trệ khách)**
Dịch:
… Tóc rối hai màu bơ phờ, gối khách
Vẫn giữ thân trong gió bụi muôn ngàn.

Sở dĩ cụ Nguyễn Du tiên sinh đã giữ được thân mình trong cát bụi phong ba là chính nhờ vào cụ có một cái nhìn tinh tế và sâu thẳm đối với cuộc đời cũng như đối với các sự vật chung quanh cuộc sống, đó là cái nhìn trong vô thường bến dịch vẫn còn có cái thường còn không biến đổi, nó chính là bản thể của sự vật. Tuy mọi hiện tượng bên ngoài của sự vật luôn bị vô thường biến khác nhung bản chất của chúng vẫn trường tồn trong cái không trường tồn. Chúng vẫn trong sáng như ngày nào, chúng vẫn xanh như ngày nào, chúng vẫn hồng như mọi buổi chiều ráng hạ, chỉ có sắc màu (của ráng chiều thì lúc nào cũng màu hồng, lá của cây rừng thì lúc nào cũng là một màu xanh, ánh sáng mặt trời mặt trăng vẫn sáng như ngày nào) là không đổi:

“Vô cùng kim cổ thương tâm xứ
Y cựu thanh sơn tịch chiếu hồng.”
無 窮 今 古 傷 心 處
依 舊 青 山 夕 照 紅
(Mạn hứng II)**
Dịch:
Điều thương tâm xưa nay vô cùng tận
Núi biếc như xưa chiều chiếu ráng hồng.

2/ NGUYỄN DU VÀ PHẬT GIÁO.

Độc qua thơ chữ Hán của cụ Nguyễn Du chúng ta gặp những bài thơ Cụ thường nói đến, trong vô thường biến hoại luôn có cái thường còn bất biến mà đạo Phật thường gọi là “Vô thường tức thị thường”. Qua hai câu thơ trên Nguyễn Du tiên sinh cho chúng ta thấy rằng trong vô thường biến hoại của hiện tượng giới của sự vật theo nhân quả luôn luôn có sự hiện hữu của thường tồn bất biến của bản thể sự vật đó chính là thật thể: Như vầng trăng sáng không bao giờ thay đổi bất cứ nơi đâu bất cứ thời đại nào, lúc nào nó cũng sáng như màu nguyên thỉ; hay lá cây xanh, ráng chiều hồng cũng là những hình ảnh của những ẩn dụ cho những chân lý bất biến theo giáo lý Tiểu thừa giáo nhà Phật, hay:

“… Ðạt nhân tâm cảnh quang như nguyệt
Xử sĩ môn tiền thanh giả sơn…”
達 人 心 境 光 如 月
處 仕 門 前 青 假 山
(Tạp ngâm 2)**
Dịch:
Tấm lòng đạt nhân vầng trăng sáng,
Trước nhà ẩn sĩ núi giả, xanh.

Chính nhờ có cái nhìn muôn vật giữa cuộc đời này nó mang ý nghĩa “Vô thường tức thị thường” của Phật giáo nên cụ Nguyễn Du cho dù lúc nào cũng sống trong khổ đau của cuộc đời mà cụ vẫn không bị cuộc đời quật ngã, vẫn hiên ngang sống. Người đạt đạo, nhà ẩn sĩ được cụ Nguyễn Du đem sánh với vầng trăng sáng, với màu xanh của núi xanh là những hình ảnh cụ lấy làm ẩn dụ cho chân lý, cho tấm lòng trong sáng của ý đạo mà theo thuật ngữ chuyên môn của Phật giáo gọi là: “Tâm vô phân biệt” là “Chân tâm” là “Tâm vô sự”.
Từ cái nhìn đạt lý này, đã đưa cụ về với Phật một cách tự nguyện và tự biến thành mình là hành giả tu tập thiền định sau này. Qua mười năm biến động xa quê nhà, những gì mà cụ đã kinh qua trong đau thương tiếc nhớ khi lăng lóc giữa cát bụi phong ba của cuộc đời: Một mặc dù cụ nhìn thấy rõ bộ mặt thật của cuộc đời trong khổ đau qua vô thường-khổ-không theo quan điểm của Phật giáo và mặc khác cũng từ đây cụ đâm ra không thích sống với đời nữa, muốn xuống tóc vào rừng ẩn tu làm người vô sự và, cũng từ đó cụ quyết tâm học Phật và thực hành trong tu tập như trong bài Đề Nhị Thanh động:

“ … Mãn cảnh giai không hà hữu tướng…”
滿 境 皆 空 何 有 相?
(Đề Nhị Thanh động)**
Dịch:
… Mọi cảnh đều không, có tướng sao?

Trước hết, từ khi cụ nhìn ra được hiện tượng và bản chất của mọi sự vật trên cõi đời này rồi thì, tư tưởng muốn xuống tóc ẩn tu làm người vô sự đã đưa cụ đến việc học Phật và thực hành theo những lời Phật dạy tùy căn cơ có được của mình. Thật ra ở đây không ai biết được cụ đã học Phật từ bao giờ và học ở đâu? để đẻ ra cái kết quả là cụ đã trở thành một hành giả tu tập Thiền, đề có thời gian huân tập và ngộ đạo qua bài thơ: “Lương Chiêu Minh Thái tử phân kinh thạch đài” nhân chuyến làm sứ đi Trung Quốc. Việc học kinh Phật cũng giống như cụ đã học Nho giáo vậy. Không biết cụ học Nho giáo vào lúc nào và học những kinh sách nào, học ở nơi đâu? với cuộc đời năm chìm bảy nổi lênh đênh từ nơi này đến nơi khác, lo toan vì miếng cơm manh áo cũng đủ đứt hơi rồi huống chi là học hành; thế mà theo như tiểu sử của cụ cho chúng ta biết rằng cụ đã từng đi thi và đỗ tam trường trong một kỳ thi Hương và sau đó cụ không đi thi tiếp nữa! Thì việc học Phật của cụ cũng vậy, chỉ biết qua bài thơ chính cụ làm ra qua bài “Lương Chiêu Minh Thái tử phân kinh thạch đài” Như vậy cụ đã tập Thiền Công án qua hàng nghìn lần độc tụng về Kinh Kim Cương và cũng đã ngộ được bản Kinh này qua “Vô tự” thị chân kinh. Theo chúng tôi nghĩ thì có thể cụ bắt đầu học Phật Khoảng thời gian từ 1786-1795, đây là khoảng thời gian mười măn giang hồ gió bụi của cụ. Vì bài thơ cụ làm ra để tỏ tâm sự chán đời muốn xuống tóc vào rừng ẩn tu cũng trong khoảng thời gian này.

“… Hà năng lạc phát quy lâm khứ,
Ngọa thính tùng phong hưởng bán vân.”
何 能 落 髮 歸 林 去
臥 聽 松 風 響 半 雲
(Tự thán II)**
Dich:
… Làm sao xuống tóc về rừng ẩn,
Nằm nghe tùng hát gió đưa mây.”

Có lẽ đây là giai đoạn quyết định chuyển mình cho một bươc đi mới sau này của cụ. Theo chúng tôi trong hiện tại hoặc sau này, việc cụ không tiếp tục theo đuổi con đường thi cử để thực hiện “chí cỡi mây” của mình theo cái học của Nho gia vào lúc bấy giờ, như bài thơ người anh ruột Nguyễn Nễ gởi cho cụ khi cụ còn lưu lạc trong đó có câu: “Tự hữu lăng vân chí” (Người vốn có chí cỡi mây) có hai lý do: Thứ nhất nhờ cụ đã nhìn rõ được cả hai bộ mặt thật của hiện tượng (vô thường-khổ đau) cùng bản chất của mọi sự vật là không, do nhân duyên hòa hợp mà hiện hữu ở trên đời này nên đã quyết định không tiếp tục con đường khoa hoạn nữa. Thứ hai có lẽ cụ không muốn cộng tác với triều đình Tây Sơn nên không tiếp tục ra thi cử nữa. Dù là lý do nào đi nữa thì đây vẫn là quyết định không muốn “cỡi mây” nữa mà muốn làm người vô sự: “nằm nghe tùng hát gió đưa mây”. Từ đây cuộc đời của cụ cũng bắt đầu chuyển đổi cho việc học Phật và thực hành sống theo nếp sống vô sự của Phật, vì cụ đã nhận thức rằng:

"Trướng vọng hồng trần diễu vô tế
Bất tri nhật nhật thử trung hành".
悵 望 紅 塵 渺 無 際
不 知 日 日 此 中 行
(Từ Châu Đê Thượng Vọng)**
Dịch:
Trông xuống bụi hồng xa mờ mịt
Sớm chiều trong đó bước quẩn quanh.

Vì lợi danh quyền lực cuối cùng cũng chỉ mang đế khổ đau và trói buốc chân chúng ta vào vòng dây oan nghiệt chạy quanh suốt đời mãn kiếp trong chốn hồng trần không bao giờ thoát ra khỏi được chúng; chỉ vì chúng ta không biết bước đi như thế nào để mang đến sự giải thoát khổ đau của vòng luân hồi lẩn quẩn đó. Giờ đây cụ quyết theo bước đi vô sự như một vị Tăng an nhiên thả giấc ngủ dưới những làng mây cô đọng chung quanh giấc cô miên lãng đãng trong rừng núi hoang vu vắng vẻ. Một cảnh quan biểu hiện lên sắc thái tự tại thong dong trong cuộc sống:

"… Đình vân xứ xứ tăng miên định
Lạc nhật sơn sơn viên khiếu ai
Nhất chú đàn hương tiêu tuệ nghiệp
Hồi đầu dĩ cách vạn trùng nhai".
停 雲 處 處 僧 眠 定
落 口 山 山 猿 咡 哀
一 炷 檀 香 消 慧 業
回 頭 已 隔 萬 重 崖
(Vọng Quan Âm miếu)**
Dịch:
Mây đọng nơi nơi Thầy an giấc,
Chiều xuống non non vượn kêu thương.
Ðốt nén hương đàn tiêu nghiệp tuệ,
Quay đầu đã cách vạn trùng nhai.

Ở đây chỉ cần biết quay đầu lại là bờ giác ngộ giải thoát, chúng cách xa bờ sinh tử luân hồi muôn trùng trên mặt sự tướng; nhưng trên mặt lý thể thì sinh tử tức là Niết-bàn, khác nhau chỉ có mê và ngộ mà thôi. Quay đầu tức là ngộ, là Phật, là vô lậu, là giải thoát, là an vui; không quay đầu tức là mê, là chúng sanh, là hữu lậu, là trói buộc, là khổ đau. Đem tâm mê chúng sanh mà hiểu Phật thì Phật cũng thành ma, như cụ đã từng viết:

“ … Sắc không cảnh giới mang bất ngộ,
Si tâm quy Phật Phật sinh ma …”
色 空 境 界 茫 不 悟
癡 心 歸 佛 佛 生 魔
(Phân Kinh thạch đài)**
Dịch:
… Cảnh giới sắc không, mê chẳng biết,
Tâm mê hiểu Phật, Phật thành ma…

Nhờ cụ đã nhìn ra được chỗ ách yếu của phương cách tu hành và, cũng từ đó hành giả theo Phật có thể thực hành để đạt được sự thể ngộ chân lý qua cuộc sống bằng vào thực hành tu tập để đạt đến trạng thái hư linh không tịch rỗng rang này, chứ không phải mang kiến thức mê muội nhị nguyên để nói về cảnh giới Phật, cảnh giới thiền là có được. Sự có được này theo cụ cũng chỉ là kiến thức mê; khi mê mà nói về Phật thì Phật đó cũng trở thành mê như Kinh Viên Giác đức Đạo sư đã dạy ngài Kim Cang Tạng rằng:
Kim Cang Tạng đương tri Như Lai tịch diệt tánh
Vị tằng hữu chung thỉ Nhược dĩ luân hồi tâm
Tư duy tức toàn phục Đản chí luân hồi tế
Bất năng nhập Phật hải Thí như tiêu kim khoáng
kim phi tiêu cố hữu Tuy phục bản lai kim
Chung dĩ tiêu thành tựu Nhất thành chân kim thể
Bất phục trùng vi khoáng Sanh tử dữ Niết-bàn
Phàm phu cập chư Phật Đồng vi không hoa tướng
Tư duy do huyễn hóa Hà huống kết hư vọng
Nhược năng liễu thử tâm Nhiên hậu cầu Viên Giác.
剛 藏 當 知 如 來 寂 滅 性
未 曾 有 終 始 若 以 輪 迴 心
思 惟 即 旋 復 但 至 輪 迴 際
不 能 入 佛 海 譬 如 銷 金 鑛
金 非 銷 故 有 雖 復 本 來 金
終 以 銷 成 就 一 成 真 金 體
不 復 重 為 鑛 生 死 與 涅 槃
凡 夫 及 諸 佛 同 為 空 花 相
思 惟 猶 幻 化 何 況 詰 虛 妄
若 能 了 此 心   然 後 求 圓 覺


“ Kim Cang Tạng nên biết Như lai tánh vắng lặng
Chưa từng có chung thỉ Nếu dùng tâm luân hồi
Suy nghĩ cảnh giới Phật Cảnh Phật thành luân hồi
Phật tánh tuy sẵn có Phải tu mới hiển hiện
Cũng như vàng sẵn có Phải lọc quặng mới thành
Khi đã thành vàng y Không trở lại làm quặng
Sanh tử và Niết bàn Phàm phu cùng chư Phật
Thảy đều như hoa đớm Tâm suy nghĩ đã huyễn
Nên lời nói cũng huyễn Làm sao nhập được chơn
Nếu rõ được tâm này Mới cầu được Viên giác.[10]

Nếu muốn có cuộc sống bình an vô sự theo cụ Nguyễn Du thì cần phải đạt đến chỗ tâm linh rỗng rang (hư linh), sau đó chúng ta làm gì cũng không có lỗi với Đạo; nhưng trước hết chúng ta phải thực hành ngay trong cuộc sống:
“ … Tiện sát bắc song cao ngọa giả,
Bình cư vô sự đáo hư linh.”
羨 殺 北 窗 高 臥 者
平 居 無 事 到 虛 靈
(Ký hữu)**
Dịch:
… Muốn làm người nằm cao nơi cửa bắc
Sống yên vô sự đạt đến hư linh.

Khi mà con người sống bình an vô sư thì chính đó là cuộc sống của người đạt đến chỗ tâm linh rỗng rang, không bị cái gì trói buộc được. Đó là một điều mà ai là người tu Phật cũng mong muốn đạt đến cảnh giới như vậy và, ở đây cụ Nguyễn Du cũng vậy, mong muốn rằng cá nhân cụ có một cuộc sống bình yên vô sự như hình ảnh của vị sư và trẻ mục đồng mà cụ đã từng thấy qua:

“… Sơn tăng đối trúc lưỡng vô dạng,
Mục thụ kỵ ngưu nhất bất như …”
山 僧 對 竹 兩 無 恙
牧 豎 騎 牛 一 不 如
(lạng sơn đạo trung)**
Dịch:
… Sư bên khóm trúc vô sự cả,
Đệ nhất mục đồng cưỡi lưng trâu…

Cụ đưa ra bốn hình ảnh: Nhà sư núi và khóm trúc bên nhau nhưng cả hai đều vô sự, trên mặt hình thức khác nhau không liên quan, trên mặt tinh thần cũng không can hệ với nhau, sư có nếp sống vô sự của sư, khóm trúc có cái thể hiện vô sự của nó; cũng vậy hai hình ảnh mục đồng và trâu cũng vậy mục đồng đang nghiêu ngao trên lưng trâu, mặc cho trâu thong thả trên đường về. Đây là những hình ảnh vô sự không can hệ lệ thuộc vào nhau để trở thành trói buộc, mà ngược lại nó là những hình ảnh vô ngại tự tại dung thông trong cuộc sống. Vì sống bình an vô sự chính là lối sống không bị lệ thuộc trói buộc vào bất cứ điều kiện nào, mặc dù người sống vẫn sống chung với các duyên sống chung quanh, nhưng người đó không bị nhiễm vào những tác nhân tạo ra nghiệp của thế gian. Ở đây cụ Nguyễn Du cũng đang thực hành cách sống vô sự này qua:

“Bất sầu cửu lộ triêm y duệ
Thả hỷ tu mi bất nhiễm trần".
不 愁 久 露 霑 衣 裔
且 喜 鬚 眉 不 染 塵
(Dạ hành)**
Dịch:
Tay áo dầm sương không ngại ướt
Mày râu,mừng chẳng nhiễm trần ai.

Những hình ảnh ẩn dụ của cụ đưa ra cho chính bản thân mình, đó chính là bước đi giải thoát vô ngại của đạo Phật. Vẫn bước đi trong cuộc đời chứ không phải lánh đời, mà vẫn sống, vẫn ăn, vẫn uống, vẫn hít thở, nói chung là vẫn làm tất cả mọi chuyện như người thế gian không khác; nhưng chỉ khác với người thế gian là sống với nó mà không bị đời làm nhiễm, không bị đời trói buộc qua tác nhân không chấp ngã, không chấp pháp, làm với quan niệm vô ngã, vô pháp thì đó chính là hành động vô sự, không bị nhiễm, không bị trói buộc. Đó chính là lối sống của cụ:

“… Tiếu đề tuẫn tục can qua tế,
Giam mặc tàng sinh lão bệnh dư.
笑 啼 徇 俗 干 戈 際
緘 默 藏 生 老 病 餘
(Tạp Thi II)**
Dịch:
…Theo đời cười khóc qua thời loạn,
Già bệnh rồi im lặng yên thân.”

Vậy muốn cho cõi lòng chúng ta lúc nào cũng trong sáng qua cuộc sống thì, chỉ có cách im lặng mà sống hay sống bằng cách vô sự, không nhiễm ô đời, không để chuyện đời vướng mắc vào tâm mình, tức là chúng ta sống với tâm vô phân biệt. Đó là lối sống với tâm không còn phân biệt chấp trước vào sự vật; tùy duyên mà sống không cưỡng lại duyên, không cưỡng lại đời như chuyện khóc cười theo đời, theo thời cuộc thăng trầm, hưng phế; nhưng không để cho đời và thời cuộc trói buộc cuộc sống chúng ta. Nếu chúng ta để tâm chúng ta bị trói buộc vào những việc đó của đời, vào thời cuộc của đời thì chúng ta sẽ bị đau khổ vì sự trói buộc đó. Đau khổ là hậu quả của mọi tác nhân tạo ra nghiệp do cuộc sống của chúng ta mang lại. Theo đó cụ Nguyễn Du đã để lại cho chúng ta một kinh nghiệm sống của chính cụ qua tâm không sau khi nghiệp chướng đươc tiêu trừ:

“ … Lão khứ vị tri sinh kế chuyết,
Chướng tiêu thời giác túc tâm không …”
老 去 未 知 生 計 拙
障 消 時 覺 夙 心 空
(Thôn Dạ)**
Dịch:
… Già rồi vẫn còn vụng về sinh kế
Khi nghiệp tiêu mới biết tâm không…

Tâm không ở đây chính là tâm trong sáng, tâm vô sự, tâm chân thật, khi nghiệp của chúng ta đã tạo ra đã được tiêu trừ rồi thì chính ngay lúc đó chúng ta giải thoát được khổ đau và, cuộc sống của chúng ta cũng trở nên tự tại an lạc được thể hiện, nên cụ lúc nào cũng ao ước là phải thực hiện cho bằng được tâm vô sự này.
Bài thơ “Thôn dạ” ở trên, cụ nói đến cái quả khi chúng ta tiêu trừ được nghiệp chướng thì tâm không còn gì để trói buộc, tâm trở nên rỗng rang, hay bảo là tâm không, hiện tiền; nhưng bằng cách nào để tiêu nghiệp nói chung, riêng cái nghiệp trí tuệ tức là cái nghiệp của thế trí biện thông, là nghiệp của trí tuệ thiện thuộc pháp hữu lậu.
Như kinh nghiệm ở trên cụ Nguyễn Du đã cho chúng ta biết rằng: Khi nghiệp chướng tiêu trừ thì tâm chúng ta trở nên rỗng rang không gì trói buộc, đó là một kinh nghiệm tâm linh có được từ nơi cuộc sống đã dạy cho cụ, để từ đó cụ bắt đầu cho cuộc sống của chính mình qua:

“ … Vị hữu văn chương sinh nghiệt chướng,
Bất dung trần cấu tạp thanh hư …”
未 有 文 章 生 孽 障
不 容 塵 垢 雜 清 虛
(Ngọa bệnh I)**
Dịch:
… Chưa thấy văn chương sinh nghiệt chướng,
Không để bụi nhơ vấy rỗng trong.

Vì bụi nhơ chính là chướng nghiệp chúng có khả năng làm mờ đi bản tính rỗng rang thanh tịnh của chúng ta, và mặc khác chúng kéo chúng ta vào con đương sinh tử khổ đau. Vì vậy cho nên cụ Nguyễn Du dứt khoát đoạn trừ với bụi nhơ bằng cách không để chúng vấy vào tâm không rỗng rang của chúng ta và, lấy văn chương để tiêu khiển.
Vì chính văn chương không phải tự nó sinh ra chướng nghiệt, mà chính tâm vọng động của chúng ta tạo ra những nghiệp chướng bằng vào thân-khẩu-ý làm công cụ cho ba độc tham lam, sân hận, si mê phát triển nuôi lớn ngã chấp và pháp chấp tạo ra mọi thứ đau khổ ràng buộc mà đức Đạo sư gọi là nghiệp và, khi nghiệp đã trừ đi hết rồi thì tâm sẽ trở nên vắng lặng trong sáng, tinh thần nhẹ nhõm an lạc tự hiện ra:

“… Tam lan song hạ ngâm thinh tuyệt,
Điểm điểm tinh thần du thái sơ.”
三 蘭 窗 下 吟 聲 絕
點 點 精 神 遊 太 初
(ngọa bệnh I)**
Dịch:
… Dưới cửa tam lan im bặt tiếng,
Tinh thần nhẹ nhõm dạo thái sơ.

Tức là chỉ cho trạng thái tinh thần lân lân nhẹ nhõm rỗng rang vô tận nguyên sơ chưa bị nhiễm ô. Khi mà mọi duyên trần cảnh bên ngoài bị cắt đứt thì, tâm thần trở nên nhẹ nhàng thư thái lân lân, vì tâm lúc này không bị ràng buộc bỡi các duyên trói buộc, dù là duyên tốt hay là duyên xấu cũng ảnh hưởng đế sự ràng buộc lệ thuộc làm cho tâm mất đi sự rỗng rang trong sáng vắng lặng. Đối với cụ Nguyễn Du lúc này cụ đã làm chủ được tâm mình nên đối những cảnh sắc bên ngoài không làm ảnh hưởng đến cõi lòng của cụ nữa, cho dù đó là việc hoa nở hay hoa tàn lá vàng hay lá xanh, lá rụng hay đâm chồi nẩy lộc, cũng không còn ảnh hưởng tác động làm cho nó lay động nữa:

"… Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sự
Tứ thời tâm kính tự như như".
葉 落 花 開 眼 前 事
四 時 心 鏡 自 如 如
(Tạp thi II)*
Dịch:
… Lá rụng hoa khai ngay trước mắt,
Cõi lòng năm tháng vẫn không thay.

Tức là tấm lòng của cụ vẫn trong sáng rỗng rang như cái bản lai diện mục của nó từ nguyên thỉ chưa nhuốm bụi trần phiền não sinh tử vậy. Vì trong hiện tại cõi lòng cụ được như như, như vậy là nhờ cụ đang trụ tâm mình vào thiền định. Có lẽ cụ đang tham công án thiền: “Làm thế nào để tâm có thể trụ vào nơi không có chỗ trụ?” Đây là một Công Án Thiền cụ rút ra từ cốt tủy của bản kinh Kim Cương, một bản kinh nền tảng của Thiền Trung Quốc nói riêng cũng như Thiền của các nước Đại thừa Phật giáo khác nói chung, kể từ Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn trở xuống. Cụ Nguyễn Du đã đang nổ lực thực hành nó, cho nên tâm của cụ lúc nào cũng ở trong nghi tình thiền định này:

"… Mãn cảnh giai không hà hữu tướng
Thử tâm thường định bất ly Thiền...”
滿 境 皆 空 何 有 相
此 心 常 定 不 離 禪
(Đề Nhị Thanh Động)**
Dịch:
… Mọi cảnh đều không, có tướng sao?
Tâm này thường định, chẳng lìa Thiền…”

Thời gian mà cụ bắt đầu có ý muốn xa lánh đời để xuống tóc ẩn tu là thời gian cuối những năm từ 1786-1795, lúc này cụ gần 30 tuổi và thời gian mà cụ sống không lìa thiền đã thể hiện ra trong bài thơ này là vào những năm 1802-1804 tức là khoảng 36 hay 37 tuổi. Như vậy, việc chuyển hướng về với đạo Phật là khá sớm và, việc cụ tự nói lên sự tu tập độc tụng kinh Kim Cương đến hàng nghìn lần không phải là những lời nói ngoa. (Ở đây chúng tôi xin mở ngoặc một tí, vấn đề tu tập của Phật giáo nó không mang bất cứ một hình thức nào nhất định hết, vì bản thân của sự tu tập này nền tảng căn bản và mục đích cuối cùng của nó là làm thanh tịnh ba nghiệp thân-miệng-ý, để mọi người không tạo ra nghiệp khổ đau mà thôi, cho nên việc tu tập cũng có rất nhiều cách: độc, tụng, học hành, lễ bái hay làm bất cứ phương cách nào như chúng ta thường nghe là vô lượng pháp môn tu, ở bất cứ nơi đâu, ở chùa hay ở tại thế gian cũng có thể tu tập được hết, với mục đích là để làm cho ba nghiệp của thân-miệng-ý không tạo ra tác nhân nghiệp và, dành cho bất cứ ai muốn thực hành điều đó, chứ không phải chỉ dành cho các vị xuất gia vào chùa làm một tỳ kheo hay một tỳ kheo ni mới gọi là tu theo đạo Phật, còn những người không mang hình thức này không phải là người của Phật giáo. Vì quan niệm sai lầm này chúng tôi gặp rất nhiều khi đọc những bài viết bình luận phê bình trong Văn học Việt nam, khi viết về Phật giáo. Có nhiều người, họ cho rằng chỉ có người đi tu ở chùa theo Phật mới gọi là những người tu theo đạo Phật còn những tại gia không ở chùa thì không phải là người của đạo Phật!.)
Sở dĩ cụ Nguyễn Du đã lựa chọn cho mình một phương pháp tu cho thích hợp với cuộc sống và căn cơ của chính cụ cho nên Thiền Công Án là một phương pháp Thiền Định làm thanh tịnh ba nghiệp thân-miệng-ý của cụ. Vì trong Thiền Công Án này có nhiều cách để huân tập nghi tình trong lúc tu như: Tham thoại đầu về nghi tình công Án này, hoặc tham nghi tình Công Án bằng cách tụng đi tụng lại cho đến lúc miên mật ngay trong giấc ngủ cũng khởi lên, huân tập nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm như vậy cho đến khi nào nghi tình này lớn mạnh, chỉ cần nhờ một duyên cuối cùng tác động lên nó, thì Công Án nghi tình sẽ bùng vỡ ngay, đó gọi là ngộ. Cũng vậy việc đọc kinh cũng giống như vậy, với mục đích là huân tập đọc đi đọc lai làm cho nghi tình càng ngày càng lớn hơn và, cho đến lúc nào đó, chỉ cần một duyên cuối cùng cũng đủ bùng vỡ, như trường hợp của cụ Nguyễn Du cũng vậy. Phân Kinh Thạch Đài là duyên cuối cùng, là giọt nước cuối cùng cho nghi tình Kinh Kim Cương của cụ bùng vỡ. Có nhiều người nghĩ rằng đọc kinh không phải tu, nhưng đó là một ý nghĩ sai lầm! Vì đọc kinh cũng là một phương pháp cắt đứt hết mọi duyên khác, chỉ định tâm vào bản kinh và, việc định tâm vào bản kinh chính là thiền định; vì lúc chúng ta định tâm vào kinh thì mọi duyên khác bên ngoài chúng ta cắt đứt, chỉ còn có biết bản kinh thôi. Lúc này thân chúng ta ngồi một chỗ, hay nằm một chỗ, thay vì đọc bằng miệng như tụng, chúng ta dùng mắt để độc và miệng thì giữ im lặng; như vậy thì ba nghiệp thân-miệng-ý chúng ta đang định vào trong kinh không tạo ra các nghiệp. Vậy là ba nghiệp thân-miệng-ý chúng ta ngay lúc đó không tạo ra nghiệp dữ rồi, đó là một cách tu trong muôn ngàn cách tu khác. Ở đây ai trong chúng ta bảo đọc không phải là tu đây!!!? Tu chỉ có một cái nghĩa đơn giản là sửa và, thiền định là một cách sửa tâm hay nhất đối với những người có căn cơ này. Việc lựa chọn kinh Kim Cương để cụ Nguyễn Du tu tập bằng cách đọc kinh là một trong muôn nghìn cách tu thiền định trong đạo Phật, với mục đích là để làm lắng động cái vọng tâm đang lăng xăng chạy theo vô minh tạo ra nghiệp khổ, mà cắt đứt dần mọi thứ tạp niệm của ý tạo ra những tạp niệm của thân tạo tác, miệng tạo tác. Lâu ngày chầy tháng dần nhờ sự cắt đứt này mà tâm từ từ trở nên trong sáng rỗng rang trở lại.
Theo Cụ Nguyễn Du, cũng giống như nước giếng xưa vốn vắng lặng trong sạch không bị người khuấy động, trăng sáng chiếu soi thấy bóng rõ ràng, vì đó là bản chất vắng lặng của nước. Nếu khuấy động lên thì chúng sẽ đục, ánh trăng sáng sẽ không còn thấy được nữa. Tâm của chúng ta cũng vậy không dao động trước mọi duyên thì với bản chất trong sáng thanh tịnh của nó thì tự nó sẽ chiếu soi khắp cả và, cũng có khả năng hiển thị tất cả qua bà thơ ẩn dụ đạo ý:

"Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh
Tỉnh thủy vô ba đào
Bất vị nhân khiên xả
Thử tâm chung bất giao
Túng bị nhân khiên xả
Nhất giao hoàn phục chỉ
Trạm trạm nhất phiến tâm
Minh nguyệt cổ tỉnh thủy".
明 月 照 古 井
井 水 無 波 濤
不 被 人 牽 捨
此 心 終 不 搖
縱 被 人 牽 捨
一 搖 還 復 止
湛 湛 一 片 心
明 月 古 井 水
(Đạo Ý)**
Dịch:
Trăng sáng chiếu giếng xưa
Nước giếng không gợn sóng
Không bị người khuấy động
Tâm này thật chẳng động
Nếu bị người khuấy động
Lay động rồi lại dừng
Một cõi tâm lắng đọng
Như trăng soi giếng xưa.

Thật ra đó chỉ là một thí dụ, cụ đưa để ví dụ cho tâm con người và nước giếng xưa tạm để chúng ta hiểu được rằng tâm ta khi định một chỗ thì nó sẽ hiển thị ra công dụng sáng trong vắng lặng cũng giống như nước giếng xưa nếu khuấy động làm cho nó đục thì nó sẽ không thấy vật gì hết, còn nếu để nguyên không khuấy động thì nó sẽ lắng trong. Đó là một thứ kinh nghiệm được cụ rút ra từ cuộc sống của chính cụ, để cho ta thấy rằng sở dĩ thường ngày chúng ta không thấy được tâm trong sáng vắng lặng rỗng rang của chúng ta, mà chỉ thấy hoàn toàn là những phiền não khổ đau làm cho chúng ta đau khổ; nào là tâm vật lý đều vô thường luôn tạo ra cho chúng ta những thứ phiền não khổ đau từ tâm lý đến vật lý: xa lìa người thân, những vật mà mình đang sở hữu thuộc về của mình cũng sinh ra đau khổ; những ai mình ghét bỏ, thù oán, hoặc những vật mà chúng ta không thích, không ưa mà luôn xuất hiện trước chúng ta cũng tạo ra những đau khổ; những điều mà chúng ta ước muốn thuộc về chúng ta (vât chất lẫn tinh thần), mà chúng ta tìm cầu không được cũng làm cho chúng ta đau khổ; nói chung là mọi thay đổi trong cuộc sống bất như ý chúng ta là mang lại cho chúng ta những đau khổ. Chính những đau khổ này nó vấy đục tâm tư chúng ta, nó làm cho tâm tư chúng ta tối tăm u ám như nước giếng xưa đang trong lành bị chúng ta khuấy đục lên vậy, công dụng hiển thị sáng soi không còn nữa. Do đó chúng ta muốn tâm chúng ta trong lành sáng tỏ thì đối với mọi sự vật từ tinh thần cho đến vật chất chúng ta chỉ cần không đắm nhiễm chạy theo nó để bị trói buộc bị khuấy dục lên thì đó chính là tâm vô sự, đó chính là Phật, là tâm không như cụ đã từng viết:

“… Phật bổn thị không bất trước vật…”
佛 本 是 空 不 著 物
(Phân kinh thạch đài)**
Phật vốn là Không, chẳng chấp vật.

Khi tâm chúng ta không chấp vào mọi sự vật chung quanh cuộc sồng từ tinh thần cho đến vật chất thì đó chính là Phật. Phật này bản thể là tính không, tướng của Phật là không vì sự hiện hữu của sắc thân nên Phật do nhân duyên tích hợp mà tác thành, thân Phật này không có thực thể, nó chỉ là một giả hợp của Năm uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc là một tích hợp của đất, nước gió, lửa (thuộc vật chất); thọ, tưởng, hành thức là tích hợp của tinh thần (thuộc tâm). Vậy thì từ vật chất đến tinh thần đều do nhân duyên hòa hợp nà hiện hữu, nên sự hiện hữu của Phật này là một hiện hữu giả danh, vì Phật chỉ là một giả danh nên Phật vốn là Không. Khi Phật đã không thì tâm cũng không.
Vậy tâm chúng ta đục hay trong cũng từ nơi ta cả chứ không ai làm cho tâm ta lu mờ và sáng trong được, cho nên cụ khuyên chúng ta nên:

"… Nhân liễu thử tâm nhân tự độ,
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu…"
人 了 此 心 人 自 度
靈 山 只 在 汝 心 頭
(Phân kinh thạch đài)**
Dịch:
… Người rõ tâm này, người tự độ,
Linh Sơn[11] chỉ ở nơi tâm ngươi …

Vì thường thì chúng ta hay cầu Phật ở nơi bên ngoài chúng ta, tức là vong thân cầu Phật tại Linh sơn, rất nhiều người nổ lực tìm cầu Phật bên ngoài mà bỏ quên ông Phật chính mình nơi mỗi người, đó là một cái nhìn vô minh thiếu chánh kiến, nên lầm đường lạc lối cầu Phật bên ngoài. Theo cái nhìn thấu tâm đạt lý của cụ Nguyễn Du thì khi chúng ta đã tỏ rõ bản tâm của mình rồi thì chính mỗi người phải tự mình độ lấy chính mình ra khỏi vô minh mờ tối của chính mình tạo ra đó thì tự nhiên tâm rỗng rang trong sáng của chính mình hiện hữu chứ không cần phải dựa dẫm vào bất cứ thế lực nào khác ngoài chúng ta. Nhiều nhà nghiên cứu về Nguyển Du mà không biết chữ Hán hay không đọc những tập thơ mà cụ viết bằng chữ Hán để biết cuộc đời của cụ đã ảnh hưởng Phật giáo như thế nảo mà viết về Nguyễn Du và Phật giáo thì, đương nhiên có những cái nhìn tưởng tượng lệch lạc về vấn đề này. Qua những điều chúng tôi trích dẫn từ văn thơ của cụ như vậy, ai dám bảo cụ không phải là người của Phật giáo? không phải là người tu theo Phật nào?! Những điều chính cụ viết ra không chịu hiểu không chịu đọc rồi ngồi đó tưởng tượng sai lầm rằng Nguyễn Du ảnh hưởng tâm học của người này người kia v.v… đem áp đặt lên người cụ, trong khi thơ cụ không có bất cứ chỗ nào đề cập đến chủ trương tâm học. Bỡi vì “Người rõ tâm này, người tự độ, Linh Sơn (chỗ Phật nói pháp) chỉ tại tâm ngươi” không phải là “tức tâm tức Phật, tức Phật tức tâm” Tâm tức là Phật, Phật tức là tâm sao? Mà theo cụ thì sở dĩ chúng ta không nhận ra được tự tánh tâm mình, không nhận ra bản lai diện mục của chính mình là vì chúng ta tìm Phật bên ngoài, chạy rông từ kiếp này sang kiếp, từ nơi này đến nơi kia để tìm; nhưng rốt cùng tìm mãi không ra chỉ vì ngưởi chỉ đi tìm cái bóng của minh không thôi, trong khi bản lai diện mục lù lù nơi chính ta mà ta không biết, càng chạy đi tìm thì càng lạc lối càng xa quê hương xứ sở nguyên sơ của chính mình chỉ vì vô minh phiền não che lấp nên không thấy đó thôi:

"Niên niên thu sắc hồn như hử
Nhân tại tha hương bất tự tri".
年 年 秋 色 魂 如 許
人 在 他 鄉 不 自 知
(Giang Đầu Tản Bộ)**
Sắc thu hồn vẫn luôn như vậy
Vì mãi xa nhà không biết thôi.

Tóm lại qua những bài thơ mà chúng tôi đã trích dẫn trong ba tập thơ chữ Hán của cụ Nguyễn Du cho chúng ta một cái nhìn đúng về nhà thơ đã ảnh hưởng sâu đậm Phật giáo trong đời sống “bất ly Thiền” hằng ngày của cụ, là một nhà thơ vĩ đại không những là của Việt Nam ta không thôi, mà cụ còn là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất thế giới nữa. Cái vĩ đại của Cụ nhờ vào hai yếu tố thứ nhất bỡi một thứ trí tuệ nghiệp được huân tập di truyền từ nhiều kiếp trước cộng với cái trí tuệ nghiệp được huân tập từ kiếp này, từ cuộc sống qua đó Phật giáo là một tác động quan trọng đối cuộc sống của cụ, nhất là Thiền tông là một nhân tố tác động chính yếu cho việc cụ khám phá ra bộ mặt thật của chính mình cũng như mọi sự vật khác, để từ đó cụ sáng tác ra những tác phẩm mang tính nhân bản triệt để hơn qua Truyện Kiều và Văn Tế thập loại chúng sanh mang đậm tư tưởng Phật giáo trong việc phủ nhận thuyết Thiên mệnh của Nho giáo đã làm hủ hóa khiến con người không tự mình vương lên trong cuộc sống được:

“ … Ngẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao. …” (Kiều)

Với quan niệm mệnh trời như vậy thì chúng ta còn làm được gì, đành phải bó tay bó chân thôi!

“… Thôi đành nhắm mắt đưa chân.
Thử xem con tạo xoay vần ra sao?...” (Kiều)

Đúng là với quan niệm như vậy nó làm cho con người trở nên yếu mền, nhu nhược. Đây mới là quan niệm làm cho con người bi quan yếm thế của Nho giáo đối với cuộc sống, chứ không phải quan niệm đời là khổ của Phật giáo là quan niệm bi quan yếm thế như nhiều người lầm tưởng. Vì đời chỉ là kết quả khổ, phát sinh từ nguyên nhân, chính con người của mỗi cá nhân mang đến kết quả đó mà thôi chứ đời không phải là nguyên nhân sinh ra đau khổ. Vậy muốn quả khổ này mất đi thì chỉ cần triệt tiêu nguyên nhân sinh ra khổ thì đời tự nhiên hết khổ thế thôi. Vậy thì việc gì Phật giáo phải bi quan yếm thế như một số người hiểu biết lệch lạc sai lầm về Phật giáo vậy! Ở đây với quan niệm mệnh Trời bắt làm người có thân, bắt phong trần phải phong trần, cho thanh cao mới được phần thanh cao thì, đây mới chính là quan niệm làn cho con người trở nên bi quan yếm thế không tự chủ trước cuộc sống. Nhưng đó là quan niệm mệnh trời của Nho giáo mà cụ đưa ra làm tiền đề và, tiếp theo đó cụ đưa ra quan điểm tự tác tự thọ, của Phật giáo qua nhân quả báo ứng để kết luận, tức là tự con người làm thỉ tự con người nhận lấy cái quả đó, mà phủ nhận cái quyền sinh sát của mệnh Trời kia. Thật sự nếu có Trời đi chăng nữa thì Trời theo cụ chỉ là một cán cân mà thôi:

“Có đâu thiên vị người nào,
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai. …”(Kiều)

Như vậy thì Trời đâu có thiên vị và làm theo ý Trời được, mà phải lệ thuộc vào tác nhân của người tạo ra mà theo đó mới bắt người chịu những kết quả tương ứng với những tác nhân trước đó của họ. Vậy thì mệnh Trời đã bị con người tước đoạt rồi, vì Trời nếu có, bây giờ chỉ làm một cán cân, cân gúp cho con người trong việc cân tội phước, họa phúc, nặng nhẹ thế nào thôi. Vì vấn đề nặng nhẹ có được do chính con người tạo ra. Bây giờ con người đại diện cho chữ tài và Trời đại diện cho chữ mệnh cả hai bình đẳng như nhau trên mặt lý tính. Ở đây chúng tôi chỉ bàn sơ qua việc này để kết luận cho bài viết này, việc này chúng tôi sẽ bàn chi tiết hơn trong phần thứ hai, bài kế tiếp về “Từ Thiên mệnh đến Nhân mệnh” trong truyện Kiều.

……………………………….
* Bài này trích một phần từ bài viết:
- Nguyễn Du “Từ Thiên mệnh đến Nhân mệnh” trong truyện Kiều.
**Sách tham khảo:
- Tổng tập Văn Học Việt Nam tập 14.
- Tố Như thi, Quách Tấn dịch, NXB An Tiêm, Sài Gòn 1973.
- Nguyễn Du toàn tập, Mai Quốc Liên chủ biên, NXB Văn học 1996.
- Nguyễn Du, niên phổ và tác phẩm của Nguyễn Thạch Giang và Trương Chính, NXB Văn hoá thông tin.
[1] 以心傳心。不立文字(Đ.T. 48, trang 03713b13 Huyết mạch luận, Thiếu thất lục môn).
[2] 為說金剛經。至應無所住而生其心。惠能言下大悟 Đ.T. 48, Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm hành do trang 0349a
[3] Đ. 48, Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm hành do trang 0349a
[4] Tổng tập Văn Học Việt nam trọn bộ 42 tập (tập 14,) trang 650 phần chú thích.
[5] Tổng tập Văn Học Việt nam trọn bộ 42 tập (tập 14,) trang 649.
[6] Tổng tập Văn Học Việt nam trọn bộ 42 tập (tập 14,) trang 622.
[7] Tử ở đây mang ý nghĩa sống chết trong từng sát-na một. Chỉ cho sự sống chết thay đổi nhau của những tế bào để tạo nên sự tiến hóa, kể cả tâm lý thay đổi. Sự thay đổi này chính là sự sống chết thay nhau trong từng giây từng khắc. Nếu không có sự thay đổi này thì con người sinh ra lúc nào cũng vẫn là một giọt máu, không có những hiện tượng trẻ lên ba, trẻ lên mười, để trở thành thiếu niên, thanh niên và cuối cùng già yếu và chết đi. Ở đây nói đến tính hiện hữu của Duyên khởi tánh không của cuộc sống.
[8] Tố Như thi, Quách Tấn dịch, NXB An Tiêm, Sài Gòn 1973. trang 170
[9] Nguyễn Du toàn tập, Mai Quốc Liên chủ biên, NXB Văn học 1996.

[10] Đ. 17, No. 0842, Đại Phương Quảng Viên Giác Tu-đa-la liễu nghĩa, trang: 0915c22 (HT. Thích Thiện Hoa dịch.)
[11] Linh Sơn: gọi cho đủ là Linh Thứu sơn, là chỉ cho núi Linh Thứu nơi đức Đạo sư nói pháp độ sinh khi Ngài còn tại thế. Có hai thời kỳ đức Đạo sư nói pháp ở nơi đây: Một, thời kỳ đức Đạo sư thuyết Kinh Pháp Hoa. Hai, thời đức Đạo sư phó pháp cho Tôn giả Ma-ha Ca-diếp (theo Thiền tông) “Dĩ tâm truyền tâm”.

Read More
Người đăng: Phổ Đồng on Thứ Hai, 14 tháng 1, 2008
0 nhận xét
categories: | | edit post


Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Ngoài sân đêm trước một đóa mai.




Sự hiện hữu đột biến phản diện của một đóa mai, đã đánh lay tâm thức của người đọc một cách bất ngờ, tạo ra một mối nghi tình cho hành giả, trong hai câu song thất kết thúc của bài kệ, mà thiền sư Mãn Giác đã trao cho những người đi sau, nhân lúc cáo bệnh thị chúng của ngài, chúng vẫn còn tiếp tục chảy không biết bao nhiêu bút mực để nói về sự hiện hữu của chúng. Vì ở đây, chúng ta mỗi người phàm tình, đang sống với cảm giác cảm tính chứ không phải trí giác của trực giác lý tính, do đó mỗi người có mỗi cái nhìn lệ thuộc vào cảm tính tình cảm thiên kiến của mỗi cá nhân. Vì vậy mọi cái nhìn đều lệ thuộc vào chủ quan tính, để nói lên cái ngã tính của mình thể hiện. Ở đây, mọi người đều có quyền thể hiện, nhưng sự thể hiện đó, chúng được đánh giá như thế nào còn tuỳ thuộc vào tính phổ quát được mọi người chấp nhận và đồng tình hay không, đó là điều đáng nói; còn chuyện muốn vượt qua khỏi mức độ cho phép, thì đó là một chuyện khác, hãy để dành cho đức Phật Di Lặc (hay những vị đạt Đạo) sau này ra đời giải quyết nghi!
Ẩn dụ của một đóa mai theo ngôn ngữ luận lý tương đối, chúng ta có thể có khả năng tháo gỡ bóc vỏ để chúng hiện hữu như chính chúng, trong việc phân tích bằng vào ngôn ngữ mà mọi người có thể chấp nhận được thì trước hết, chúng ta phải biết qua xuất xứ của bài kệ này, để từ đó đánh giá đúng hơn về tư tưởng ẩn dụ này qua bài kệ, sau nữa là người viết và người đọc phải tham dự vào, tiến trình động não phân tích qua pháp phủ định những nguyên tắc, tưởng chừng như là một chân lý khó phá vỡ vượt qua, do kinh nghiệm thói quen tập quán mang lại trên mặt hiện tượng.
Trước khi thị tịch ngài có để lại cho chúng ta một bài kệ nhân khi ngài cáo bệnh dạy chúng:


“Xuân đi trăm hoa rụng,
Xuân đến trăm hoa cười.
Việc đời qua trước mắt,
Già đến trên đầu rồí!
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Ngoài sân đêm trước một đóa mai".
(Thiền Uyển tập anh).

Qua xuất xứ bài kệ dạy chúng trước khi người thị tịch và nội dung của chúng, đã kết hợp đủ để chúng ta có một cái nhìn tổng quát về mặt hiện tượng (tướng-dụng) và ẩn dụ (thể).
Đứng về mặt hiện tướng là một vị thiền sư, ngài nói lên cái chức năng của một người dẫn đường trước khi mình qua đời, để cảnh tỉnh những người còn lại sau này qua việc sống-chết. Cho dù bằng vào những kinh nghiệm sống, những thói quen tập quán, mà con người đã rút ra được những chân lý mang tính phổ quát được mọi người chấp nhận đi nữa, thì đó cũng chỉ là một thứ chân lý của tương đối thôi. Vì sao? Vì việc đến đi của mùa xuân chúng tùy thuộc vào vô thường, nếu không có vô thường thì sẽ không có đến-đi, và không có đến-đi thì sẽ không có mùa xuân. Do đó, việc:” Xuân đi trăm hoa rụng, xuân đến trăm hoa cười.” chỉ là hiện tượng biến dịch (vô thường) THƯỜNG chứ không gì khác. Ở đây, chúng biểu trưng cho việc sống chết của con người mà lý vô thường luôn được hiện hữu một cách thường xuyên, để thể hiện luật tắc Duyên khởi trong hiện tướng (trongThành-trụ-hoại-không) của các pháp. Chỉ vì chúng ta không nhìn ra được cái lý ẩn của:” Việc đời qua trước mắt, Già đến trên đầu rồi", nên từ sự vô thường bất toàn của các pháp, con người đâm ra ham sống sợ chết, sống vui chết buồn, và cũng từ đó mọi sự sợ hãi được hình thành, ám ảnh con người, để rồi các thứ bệnh tà kiến phân biệt chấp trước đua nhau xuất hiện trong cái lòng tin mù quán của mọi người. Đây cũng là điều mà chính đức Phật đã dạy trong kinh Kamala:” Đừng vội tin tưởng vào bất cứ điều gì mà chúng ta thường nghe nhắc đi nhắc lại luôn luôn. Đừng vội tin tưởng vào điều gì mà điều đó được coi như là một tập tục từ ngàn xưa để lại. Đừng tin tưởng vào những sáo ngữ mà người ta thường đề cập đến luôn. Đừng tin tưởng bất cứ điều gì dù đó là bút tích của thánh nhơn. Đừng tin tưởng vào điều gì dù là thói quen từ lâu, khiến ta nhận là điều ấy đúng. Đừng tin tưởng một điều gì do ta tưởng tượng ra mà lại nghĩ rằng do một vị tối linh đã khai thị cho ta. Đừng tin tưởng vào bất cứ điều gì mà điều đó chỉ dựa vào uy tín của các thầy dạy cho các người. Nhưng chỉ tin tưởng vào cái gì mà chính các người đã từng trải, kinh nghiệm và nhận cho là đúng, có lợi cho mình và người khác. Chỉ có cái đó mới là đích tối hậu thăng hoa cho con người và cuộc đời. Các người hãy lấy đó làm chỉ nam cho mình". Chính vì sự sợ hãi trước cuộc sống-chết của chính mình, qua những biến động đổi thay của vô thường luôn luôn hiện hữu bên cạnh, nên lòng mê tín dị đoan của chúng ta nổi dậy tin chấp tà kiến vào những thế lực bên ngoài, để rồi bị chúng cuốn hút luôn, không làm chủ được mình. Do đó, Thiền sư Mãn Giác mới cảnh giác chúng của ông và những người đi sau như chúng ta, qua pháp phủ định những xác định mà người đời đã coi chúng như là một thứ chân lý, qua hai câu song thất của bài kệ:
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Ngoài sân đêm trước một đóa mai.
Qua pháp phủ định này, trước hết đứng về mặt biểu hiện,thì sự hiện hữu của một đóa mai, không bị lệ thuộc vào việc xuân đến hay là xuân đi như chúng thường được chấp nhận một cách tự nhiên, được coi như là một thứ chân lý xưa nay theo kinh nghiệm:” Xuân đi trăm hoa rụng, xuân đến trăm hoa cười.” theo tiến trình thời gian, phân bố điều trong một năm qua bốn mùa xuân-hạ-thu-đông. Như vậy có nghĩa là chúng sẽ hiện hữu vào bất cứ lúc nào, khi những điều kiện duyên cùng hoàn cảnh môi trường chung quanh, đủ cho phép để hiện khởi thì chúng hiện hữu. Đó là chỉ nói đến một sự hiện hữu chưa được xác định qua phủ định, nhưng ở đây chúng ta được thiền sư tự xác định thời gian và nơi chốn hiện hữu của chúng qua câu hai:” Ngoài sân đêm trước một đóa mai". Vậy ở đây, đêm trước là đêm nào? và chúng thuộc vào mùa nào trong năm? điều này cũng dễ thôi nếu chúng ta biết liên hệ đến thời gian cáo bệnh để dạy chúng của người. Theo tiểu sử thì ngài nói ra bài kệ này cùng ngày trước khi ngài thị tịch, như vậy ngày ngài qua đời là ngày 30 tháng 11 năm Hội phong thứ 5 (1096). Qua đây chúng ta đã xác định được ngày tháng năm và nơi chốn đóa mai hiện hữu. Chính sự hiện hữu của đóa mai này đã nói lên được: thứ nhất sự phủ định của ngài đã đánh đổ đi được những lệ thuộc ước lệ thời gian từ ngàn xưa để lại, mà mọi người trong chúng ta đã từng chấp nhận như là một chân lý. thứ hai sự hiện hữu của đóa mai có thể là bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào miễn có đầy đủ mọi duyên cùng hoàn cảnh môi trường chung quanh cho phép thì chúng sẽ hiện hữu. Mai nở vào mùa đông có gì không phải ? Hiện tại khoa học dư sức để tạo môi trưòng về việc này, ngay đến việc tác tạo ra thai nhi trong ống nghiệm họ còn làm được, qua việc trích ly tinh trùng và noãn sào của người đàn ông và đàn bà phối hợp với nhau, cùng tạo môi trường dinh dưỡng đầy đủ v.v... thì thai nhi hiện hữu và lớn lên. Cũng vì việc tác tạo thai nhi trong ống nghiệm của các nhà khoa học, mà họ đã từng bị một số tôn giáo phản đói. Nhưng đó là việc của tôn giáo, còn khao học vẫn là khao học, khoa học không phải vì thế mà chúng mất đi giá trị chân lý của chúng. Chân lý vẫn là chân lý khi khao học là biểu tượng cho những thành tựu chân lý của chính nó, trong khi tư tưởng phản khoa học chúng là vật cản đường để đi đến chân lý, những thứ nọc độc cặn bã này rồi cũng sẽ bị thời gian đào thải mà thôi. Qua đây đủ nói lên tính ưu việt của thuyết nhân duyên sanh khởi của đạo Phật, mà qua đó khoa học càng ngày càng nhận thấy, những kết quả thực nghiệm của họ khám phá ra trong hiện tại, luôn luôn tương ứng và khế hợp với những lời dạy của đức Phật cách đây hơn hai ngàn năm.
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái” Bản lai diện mục” của các loài hữu tình nói riêng, và vạn vật vô tình nói chung. Chúng luôn luôn tồn tại và biến dịch trong từng sát na một, chúng luôn tùy thuộc vào các duyên đủ để hiện khởi, và biến khác đi nhờ lý vô thường tác động để hình thành luật tắc” vô thường tức thị thường". Ở đây, trong tất cả những duyên đủ để hình thành sự hiện hữu của một vật, thì các loài hữu tình chỉ khác với loài vô tình về nghiệp lực qua năm uẩn (Về vật chất (sắc): đất, nước, gió, lửa, không. Về tinh thần (tâm): thọ, tưởng, hành, thức) mà thôi.
Như chúng ta biết tiến trình sinh hóa của vũ trụ vạn vật chúng luôn tùy thuộc vào các duyên đủ để hiện khởi, do đó việc đóng khung vào những hiện tượng bên ngoài theo kinh nghiệm, để phân chia cắt xén thời gian và, áp đặt lên nó một nhãn hiệu nào đó theo đạo Phật điều đó là một việc làm sai lầm. Cũng đứng trên quan điểm này thiền sư Mãn Giác dùng” đóa mai” làm ẩn dụ cho” Bản lai diện mục” của mỗi chúng ta. Bản lai diện mục này không những chỉ hiện hữu trong kiếp này để rồi biến mất sau khi chết đâu, mà chúng hiện hữu bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu trong ba cõi sáu đường luân hồi này nếu đủ duyên, việc đủ duyên ở đây chúng tôi muốn nói đến y báo và chánh báo của nghiệp. Như vậy vấn đề sống-chết hay sinh-diệt của các pháp ở đây chúng tôi chỉ mới nói đến Phân đoạn sanh-tử chứ chưa đề cập đến vấn đề Biến dịch sanh-tử. Cũng như đóa mai chúng sẽ nở ra bất cứ mùa nào trong năm cho dù là mùa đông nếu hội đủ các điều kiện của mùa xuân thì chúng hiện hữu.
Qua pháp ẩn dụ này tuy chúng ta đã được thiền sư Mãn Giác hướng dẫn cho chúng ta một cách nhìn đúng về sự hiện hữu và biến dịch của của cái Bản lai diện mục chính mỗi người qua pháp phủ định, và chúng sẽ hiện hữu - biến dịch vào bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu trong ba cõi sáu đường. Nhưng ở đây có một điều quan trọng là chúng ta chưa thấy được bộ mặt thật của cái Bản lai diện mục của chúng ta như thế nào? Điều này là một vấn đề cần thiết cấp bách dành cho việc nổ lực thực hành.của mỗi chúng ta, mà thiền sư Mãn Giác cần nơi chúng ta tự giải quyết nghi.

Read More
Người đăng: Phổ Đồng on Thứ Ba, 8 tháng 1, 2008
0 nhận xét
categories: | | edit post


I. TỪ HOÀNG MAI ĐẾN ĐÔNG SƠN.
Sau khi Lục tổ Đại sư đắc Pháp từ Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ở Hoàng mai, cho đến ngày đắc Giới tại Đông sơn là khoảng thời gian dài mười lăm năm ẩn tu trong đám thợ săn. Trong khoảng thời gian này, bài pháp đầu tiên để dạy người của Lục tổ Đại sư, là bài pháp nảy sanh từ lòng trắc ẩn, và cái thế chẳng đặng đứng trước lòng ngoa ngụy của con người, vào lúc đó Lục tổ không thể chối từ được (vì trước đó Lục tổ đã được Ngũ tổ dặn dò trước khi ra khỏi Hoàng mai, là không được vội vàng nói pháp cho bất cứ ai, vì sợ rằng Phật pháp khó hưng thịnh sau này).
Bài pháp đầu tiên này nói ra để độ cho kẻ đang muốn đoạt y-bát và ngay cả mạng sống của mình với bất cứ giá nào! Điều đó đã chứng tỏ được lòng vô úy và từ bi của người như thế nào rồi. Qua đây Huệ Minh đã nhìn lại được Bản lai diện mục của chính mình qua việc :” Không nghĩ thiện không nghĩ ác, ngay lúc đó cái gì là bản lai diện mục của Huệ Minh thượng tọa?” (Pháp Bảo Đàn).
Ngoài bài pháp đầu tiên dành cho Huệ Minh thượng tọa trên bước đương lẫn tránh vào nam, và những bài pháp mà Lục tổ Đại sư đã phương tiện tùy nghi nói cho bọn thợ săn trong vòng mười lăm năm không ghi chép lại, còn có hai bài pháp nữa đó là bài” Tâm động” và” Pháp không hai". Đây là hai bài pháp mở đầu cho sự xuất hiện sau này của Lục tổ Đại sư khi ra dạy người, và cũng là hai bài pháp trực tiếp đưa đến việc đắc Giới tại Đông sơn của người. Trong kinh Pháp Bảo Đàn, phần cuối của phẩm Hành Do viết:
- “Một hôm Lục Tổ suy nghĩ đã đến lúc nên ra hoằng pháp, không nên ẩn lánh mãi được, liền đi đến chùa Pháp Tánh tại Quảng Châu, gặp lúc pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh Niết bàn.
Lúc bấy giờ, gió thổi lay động lá phướn. Một vị tăng bảo rằng gió động, một vị tăng khác bảo là phướn động, tranh luận nhau mãi. Huệ Năng bước đến bảo rằng:
- Chẳng phải gió động, cũng chẳng phải phướn động, mà chính tâm hai nhân giả động đó! Cả chúng đều giật mình.
Ấn Tông mời lên chỗ cao ngồi và, gạn hỏi nghĩa lý sâu xa. Thấy lời đối đáp của Huệ Năng đơn giản, nhưng nghĩa lý lại chính xác, mà không theo văn tự cú pháp nào.
Tông nói:
- Hành giả nhất định không phải là người thường. Từ lâu đã nghe Y-pháp của Hoàng Mai truyền vào phương nam, chẳng phải là hành giả thì ai đây?
Huệ Năng nói:
- Chẳng dám!
Tông liền làm lễ, và xin cho đại chúng được xem Y-bát truyền lại.
Tông hỏi:
- Khi phó chúc Hoàng Mai truyền dạy như thế nào?
Huệ Năng bảo:
Truyền dạy thì không, nhưng chỉ luận về” thấy tánh” chứ chẳng luận về thiền định hay giải thoát gì cả.
Tông hỏi:
- Tại sao không luận về thiền định hay giải thoát?
Huệ Năng bảo:
- Vì hai pháp chẳng phải Phật pháp, mà Phật pháp là pháp không hai.
Tông lại hỏi:
- Sao gọi pháp không hai là Phật pháp?
Huệ Năng nói:
- Pháp sư giảng kinh Niết bàn đã làm rõ Phật tánh, thì đó chính là pháp không hai của Phật pháp. Như Bồ tát Cao quí Đức vương bạch Phật :
- Người phạm vào cấm giới thuộc Bốn tội nặng, tạo Năm tội nghịch cùng bọn Nhất xiển đề thì Phật tánh thiện căn của họ có bị đoạn mất không?
Phật dạy:
- Thiện căn có hai: Một là thường, hai là vô thường; còn Phật tánh thì chẳng phải thường, chẳng phải vô thường cho nên chẳng bị đoạn, đó gọi là không hai. Một là thiện hai là bất thiện, còn Phật tánh chẳng phải thiện chẳng phải bất thiện, đó gọi là không hai. Uẩn và Giới phàm phu thấy hai, người trí liễu đạt tánh của chúng không hai, tánh không hai là Phật tánh.
Ấn Tông nghe xong nói:
- Tôi giảng kinh như gạch ngói, còn nhân giả luận nghĩa như vàng ròng.
Nhân đây xuống tóc cho Huệ Năng và nguyện thờ làm thầy. Huệ Năng liền mở pháp môn Đông Sơn dưới cây Bồ đề".
Qua ba bài pháp này, ở đây thứ nhất Huệ Minh thượng tọa đã ngộ được cái chi ngay lúc” không nghĩ thiện không nghĩ ác"? Đây phải chăng là bài pháp báo hiệu mở đầu cho phương pháp dạy người sau này qua” Vô niệm” của người để qua đó nhận ra ngay cái bản lai diêïn mục của mỗi chúng ta trong cuộc sống. Đây là cách thể hiện Tông chỉ của Bồ Đề Đạt ma qua” Trực chỉ nhơn tâm kiến tánh thành Phật” theo thể điệu và phương pháp thực tiễn của người Trung hoa đối với cuộc sống. Sự thể hiện này, được áp dụng ngay trong bài pháp thứ hai khi Lục tổ ra chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu nhân gặp hai vị Tăng đang tranh luận về” Gió động hay Phướn động". Một câu trả lời mới nghe ra như là đơn giản, nhưng đã đánh động làm chao đảo tận nguồn gốc tâm thức mọi người.
Ở đây, gió động hay phướn động? Tất cả đều là cảnh ngoài, chúng không có bất cứ giá trị thực hữu nào, vì chúng không can hệ gì đến chúng ta. Chúng chỉ có giá trị được khi tâm chúng ta khởi lên tác ý và, chúng được vọng tâm của chúng ta áp đặt lên chúng những gía trị mà chúng không bao giờ có. Do đó, chúng trở nên là thật có đối với một tâm hồn mê mờ mà thôi, trên thực tế chúng chỉ là những chiếc bóng không thật. Qua đây rõ ràng chúng ta đã tự đánh mất bổn tâm, đã tự vong thân chấp vào những pháp giả huyễn không thật có ở bên ngoài cho là thực hữu, và vì vậy cho nên có Gió động hay Phướn động. Sự hiện hữu của Gió động hay Phướn động ở đây chỉ là cái bóng của vọng tâm (hữu tâm) áp đặt lên chúng chứ cũng chưa phải là vọng tâm (Cái tâm động (vọng tâm) này, thật ra ở đây chúng cũng chưa phải bộ mặt thật của Bản lai diện mục của chúng ta, mà chúng mới chỉ được coi như là phương pháp phương tiện dùng độc trị độc, chứ chưa phải là pháp Vô niệm vượt thoát trong pháp môn dạy người của Lục tổ). Vậy ngay đến cái vọng tâm chúng ta chưa nhận ra được chúng, huống chi là cái chân tâm của vọng (hữu tâm) làm sao chúng ta nhận ra được? Đó là chúng ta chỉ mới đề cập đến vọng và chân thuộc hữ-vô của hữu tâm mà thôi, chứ chưa nói đến cái Vô Tâm vượt ra ngoài cái hữu-vô của ngôn ngữ biểu tượng, mà Lục Tổ đã đề cập trong bài pháp thứ ba dạy người của Ngài qua pháp” Không hai” để nói lên pháp” Vô niệm” hay” Vô tâm” sau này của ngài. Ở đây” tâm động” của hai vị tăng chính là cái hữu tâm của vọng tâm, thuộc về” Hữu” đối lập với” Vô” mà chính chúng ta không nhận ra, nên chúng đã bị bỏ qua và, bị quên lãng để rồi chúng chạy theo cái bóng của chính nó ở bên ngoài qua các duyên được biểu hiện tác dụng theo cái vị, và những tướng trạng sai biệt được biểu hiện ra bên ngoài mà thôi, trong khi các pháp tự chúng bình đẳng trong cái Tánh qua pháp không hai tức là Phật tánh.
Phật tánh này, chúng xa lià tất cả mọi quan niệm, mọi khái niệm, chúng không lệ thuộc vào pháp nhị nguyên nhân quả. Vì pháp nhân quả nhị nguyên chúng nói lên tánh cách lệ thuộc trói buộc vào nhau, theo đó quả luôn luôn tùy thộc vào nhân mà hiện hữu. Sự hiện hữu này nói lên tánh cách mất tự tại của các pháp đối với sự giải thoát mà chính đức đạo sư đã từng xiển dương. Do đó, tánh không hai ở đây mang một ý nghĩa vượt thoát không còn lệ thuộc vào các pháp mặc dù chúng đang thể hiện cái dụng với nhau. Sự vượt thoát này chúng được sử dụng một cách tự tại vô ngại vào bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu. Tánh không hai này cũng gọi là Phật tánh. Phật tánh này chúng ta cần phải thấy (kiến), như ngài đã dạy ở trên qua việc Hoàng Mai truyền dạy như thế nào khi Ấn Tông hỏi. Ngài bảo:” Truyền dạy thì không, nhưng chỉ luận về thấy tánh, chứ chẳng luận về thiền định hay giải thóat” vì thiền định và giải thoát cũng chỉ là một mặt của pháp nhị nguyên nhân hay quả mà thôi. Ở đây, bất cứ pháp nào còn bị lệ thuộc vào cái khác đều không thể gọi là pháp không hai được, như thiện căn chẳng hạn, đức Phật dạy: Một là thường còn, hai là vô thường; còn ngược lại Phật tánh chẳng lệ thuộc vào thường hay vô thường. Cái nào còn lệ thuộc vào cái khác, thì cái đó còn bị trói buộc dù là thường hằng hay đoạn diệt; ngược lại cái nào không còn bị lệ thuộc vào cái khác thì cái đó được gọi là tự tại giải thoát, là không hai, là Phật tánh.
Trên đây là ba bài pháp đầu tiên được ghi lại, sau khi Lục Tổ Đại sư đắc pháp tại Hoàng Mai cho đến lúc ngài đắc giới (thọ giới Tỳ kheo) tại Đông Sơn, ngoài ra còn những bài pháp tùy nghi khác, không được ghi lại trong vòng mười lăm năm cùng ở với bọn thợ săn mà chúng ta không được biết. Qua đây chúng báo hiệu cho chúng ta một phương pháp dạy người, nhằm vào cuộc sống thực tiễn của môn nhân mà ngài khai triển. Pháp môn này, trước hết ngài lập Vô-Niệm làm Tông, Vô-Tướng làm Thể, và Vô-Trụ làm Gốc như chín phẩm cuối trong kinh Pháp Bảo Đàn đã ghi. Đó chính là giai đoạn từ Đông Sơn đến Tào Khê sau này đã được ngài thể hiện.
II. TỪ ĐÔNG SƠN ĐẾN TÀO KHÊ
Sự đắc giới của Lục tổ Đại sư tại Đông sơn, là một cái duyên trực tiếp, để đưa đến việc truyền pháp Đốn giáo, mở đầu cho một khuynh hướng thực tiễn mang đậm màu sắc Trung hoa sau này. Giờ đây, ngài đã trở thành vị tổ thứ sáu, Thiền phái Đốn ngộ phương nam, của hai phái nam-bắc vào lúc bấy giờ, và chúng đã trở thành một trở ngại cho những người đi sau, như chính trong phẩm thứ tám Đốn-Tiệm của PHÁP BẢO ĐÀN đã đề cập:
- “Lúc bấy giờ, cả hai tông đều thạnh hành, nên phân ra hai phái “Đốn-Tiệm” khiến người học Đạo không biết theo đâu.”
Thật ra pháp chỉ có một chứ không hai, nhưng vì căn cơ chúng sanh có chậm có nhanh, có sáng có tối, có thông minh có ngu si, nên pháp cũng tùy thuộc vào căn cơ đó mà có Đốn-Tiệm để phù hợp với kiến giải của mỗi người. Sự kiện này được thể hiện qua hai phương pháp tu hành hòan tòan đối nghịch nhau, qua cuộc tiếp xúc giữa Lục tổ và người đệ tử thông minh nhiều trí của ngài Thần Tú là Chí Thành, là một đơn cử cụ thể cho hai pháp này:
“Sư bảo:
- Thầy nhà ngươi dạy chúng như thế nào?
Thưa:
- Thầy thường dạy chúng trụ tâm quán tĩnh, ngồi mãi không nằm.
Sư bảo:
- Trụ tâm quán tĩnh là bệnh chẳng phải Thiền. Ngồi mãi bó thân, đối với lý chả có ích gì … Ta nghe nói thầy của nhà ngươi dạy Giới-Định-Tuệ cho mọi người, nhưng ta chưa rõ hành tướng của Giới-D9ịnh-Tuệ như thế nào? Nói cho ta nghe coi.
Thành thưa, Tú đại sư dạy rằng:
Các điều ác không làm là Giới
Các điều lành vâng làm là Tuệ
Tự sạch tâm ý mình là Định.
Ngài dạy như vậy, không rõ Hòa thượng dùng pháp gì để dạy mọi người? …
Hãy nghe bài kệ của ta:
Tâm địa không tà là Giới tự tánh
Tâm địa không mê là Tuệ tự tánh
Tâm địa không lọan là Định tự tánh
Không thêm không bớt là Kim cương
Thân đến hay đi là Tam muội.”
Chỉ cần qua hai bài kệ này, chúng ta cũng có thể xác định được phương pháp tu của hai vị Tổ sư này. Ở đây, một bên đứng trên mặt tướng mà lập cước, và mặt kia lại đứng trên tự tánh mà thể hiện. Do đó, dù muốn dù không đi nữa, chúng ta không thể phủ nhận sự sai biệt trên lập trường về Giới-Định-Tuệ của hai ngài, mà qua đó chúng lệ thuộc vào căn cơ của người được tiếp độ. Chính Lục tổ dạy:
- “Giới-Định-Tuệ của thầy nhà ngươi dạy, chỉ để tiếp độ người Đại thừa, còn Giới-Định-Tuệ của ta dạy, là để tiếp độ những bậ Tối thượng thừa. Sở dĩ ngộ-giải không đồng, vì kiến giải có chậm có nhanh. Nhà ngươi thấy ta nói có giống thầy nhà ngươi không? Ta nói pháp không lìa tự tánh. Nếu lìa bản thể mà nói pháp, tức chỉ nói đến hiện tướng, còn tự tánh vẫn mê. Phải biết muôn pháp, tất cả đều tự tự tánh mà khởi lên hiện tượng tác dụng, đó là pháp Giới-Định-Tuệ chân thật.”
Đây chính là tư tưởng chỉ đạo mấu chốt, để đưa đến pháp dạy người qua” Vô niệm” của ngài. Tuy ngài đã từng bảo:” Nếu bảo rằng ta có pháp để trao cho người, thì ra ta nói dối với ngươi. Nhưng ta tùy theo chỗ trói buộc mà mở trói, tạm gọi là Tam muội.” Tam muội ở đây, chính là pháp Vô niệm của Lục tổ. Từ tự tánh khởi lên (Vô niệm) hiện tượng tác dụng để muôn pháp hiện hữu trong cái Tam muội Vô niệm ấy. Đây chính là sự thể hiện của tự tánh qua thật tướng của muôn pháp, mà Vô niệm chính là con đường Trung đạo để hành giả thể hiện bước đi của mình. trong phẩm Định-Tuệ thứ tư, Lục tổ đã thể hiện con đường này qua Định-Tuệ, Sư dạy chúng:
- “Thiện tri thức! Pháp môn này của ta lấy Định-Tuệ làm gốc. Đại chúng chớ lầm bảo rằng Định-tuệ khác nhau. Định-tuệ cùng một thể chẳng phải hai. Định tlà Thể của Tuệ, Tuệ là Dụng của Định. Khi có tuệ thì định ở trong tuệ, khi đã có định thì tuệ ở trong định. Nếu biết được nghĩa này thì Định-Tuệ cùng học.”
Con đường này vượt qua khỏi con đường nhân quả của Giới-Định-Tuệ. Ở đây, không còn có việc “ nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ” mà chúng được thể hiện qua định thức Duyên khởi” cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không, cái này sanh thì cái kia sanh, cái này diệt thì cái kia diệt.” Đây là con đường của hiện khởi tùy duyên. Nơi nào có Giới thì nơi đó có Định-Tuệ, nơi nào có Định thì nơi đó có Giới-Tuệ, nơi nào có Tuệ thì nơi đó có Giới-Định. Sự hiện hữu của chúng cùng lúc bắt đầu và chung cuộc. Sự hiện hữu của chúng luôn luôn tùy thuộc tất yếu vào nhau, không có cái nào trước, cái nào sau cả.
Ở đây, chúng ta nếu muốn tìm hiểu, phân tích chúng, thì sẽ không đạt được những gì mà chúng ta muốn. Bỡi vì chúng luôn luôn sống động và biến dịch theo duyên, do đó chúng ta bắt chúng dừng lại, rồi cắt xén chúng thành những mảnh vụn manh mún, trong cái dòng biến dịch sống động này, để định nghĩa tìm hiểu, thì những mảnh vụn bị chúng ta cắt ra đó, trươc hết chúng là những sự kiện hiện thực chết, bất động, không hồn; sau nữa chúng không mang bất cứ một ý nghĩa nào của dòng sống, vì chúng đang bị cô lập, đang bị cắt xén, đang bị phân hủy. Chúng không còn là cái Đang-là của dòng biến dịch luôn luôn mới toanh này. Cho dù chúng ta đứng trên một giả lập tương đối, mang tính phổ quát đối với thời gian, mà tìm hiểu hay phân tích đi chăng nữa, chúng đã được giả định tùy thuộc vào nhau trong một cái tòan thể nhất định như vấn đề:” Định là thể của Tuệ, Tuệ là Dụng của Định” chẳng hạn, chứ không phải là cái riêng rẽ. Thật ra ở đây, vì đứng trên mặt tương đối của ngôn ngữ nên có sự liên hệ Duyên khởi của Thể và Dụng vậy thôi. Nhưng nếu đứng trên mặt tòan thể, thì chúng chỉ là một, không hai không khác. đây chính là sự liên hệ mấu chốt, làm cơ bản nền tảng cho pháp dạy người của Lục tổ Đại sư qua pháp môn” Vô niệm” của ngài.
“Thiện tri thức! Pháp môn này của ta từ trên xuống dưới, trước hết lập Vô niệm làm Tông, Vô tướng làm Thể, Vô trụ làm Gốc.”
Pháp môn này là con đường Trung đạo, theo đó Vô niệm được coi như là một phương pháp vượt thóat giữa những đối cực của cuộc sống. Chúng vượt qua khỏi mọi hệ thống tương đối có giá trị trên mặt nhân quả, để từ đó tạo cho hành giả một bước đi mới qua tùy duyên, không can hệ lệ thuộc vào các đối cực lưỡng biên tà kiến. (Ở đây, chúng tôi hơi dài dòng một tí, là phải trích dẫn những gì mà chính ngài đã dạy về con đường Vô niệm Trung đạo này, mặc dù ngài có đề cập đến Vô tướng, Vô trụ. Nhưng điều này chúng chỉ làm sáng tỏ thêm sự thể hiện Vô niệm ở trong chúng, để tùy thuộc vào Thể-tướng-dụng mà qua đó chúng đã thể hiện theo duyên thôi.)
“Vô tướng là ở trong niệm mà không niệm. Vô trụ nghĩa là bản tánh của con người đối với những việc thiện ác, tốt xấu cho đến kẻ oán người thân ở thê gian; hoặc khi nói năng xúc phạm, khinh khi tranh chấp, đều coi như không, chẳng nghĩ đến việc trả thù hại người. Từng niệ không nghĩ đến những cảnh đã qua. Nếu niệm trước đến niệm này qua niệm sau, mà niệm nối tiếp nhau không dứt, đó gọi là trói buộc. Đối với các pháp, niệm-niệm không trói buộc, vì vậy nên lấy Vô trụ làm gốc là vậy.
“Thiện tri thức! Bên ngoài lìa tất cả tướng gọi là Vô tướng. Lìa khỏi tướng thì Thể pháp thanh tịnh, vì thế nên lấy Vô tướng làm Thể.
“Thiện tri thức! Đối với các cảnh, tâm không đắm nhiễm, thì gọi là Vô niệm …
“Thiện tri thức! Vì sao lập Vô niệm làm Tông? Vì người mê miệng chỉ biết nói thấy tánh, nhưng đối với cảnh thì sanh vọng niệm. Từ vọng niệm khởi lên tà kiến, rồi từ đó tất cả những trần lao vọng tưởng sinh ra. Tự tánh vốn không có một pháp nào để được. Nếu có đạt được thì đó cũng chỉ là thứ họa phước phịa nói mà thôi. Đó chính là trần lao tà kiến, cho nên pháp môn này lập Vô niệm làm Tông.”
Qua pháp môn lấy Vô niệm làm Tông, Vô tướng làm Thể, Vô trụ làm Gốc, Lục tổ nói lên được tác dụng của Thể-Dụng nhiệm mầu của các pháp, mà ở đó chúng tùy theo duyên mà thể hiện. Từ đây mọi hiện tượng tác dụng đều khởi lên từ tự tánh, do đó mọi hiện tượng đều mang vào chúng một toàn thể vô phân biệt, vô chấp. Những tác dụng ở đây tự tại, thông suốt, không bị trói buộc. Đây là hiệu quả tác dụng của con đường Trung đạo Vô niệm thể hiện. Con đường này đã được Lục tổ diễn tả như sau:
- “Thiện tri thức! Vô là Vô cái gì? Niệm là niệm vật chi? Vô là không có hai tướng, không có những tâm trần lao. Niệm là niệm bổn tánh chân như. Chân như là thể của niệm, niệm là dụng của chân như. Tự tánh chân như khởi niệm, chứ không phải mắt, tai, mũi, lưỡi khởi niệm. Vỉ chân như có tánh nên khởi niệm, nếu chân như không có tánh thì mắt, tai, màu sắc, âm thinh sẽ bị hoại tức khắc.
“Thiện tri thức! Khi tự tánh chân như khởi niệm, thì sáu căn có thấy, nghe, hiểu biết, nhưng vẫn không nhiễm vào muôn cảnh. Vì tánh chân như luôpn luôn tự tại, nên kinh dạy: Thường khéo phân biệt các pháp, nhưng đối với Đệ nhất nghĩa vẫn bất động.”
Hay trong phẩm thứ hai Bát nhã, Lục tổ cũng đề cập đến vấn đề này. Để làm sáng tỏ và dễ hiểu hơn Lục tổ tự đặt vấn đề đối với Vô niệm và tự trả lời”.
“Sao gọi là Vô niệm? Là thấy tất cả mọi pháp mà tâm không đắm nhiễm, thì đó gọi là Vô niệm. Nó diệu dụng khắp nơi, nhưng không dính mắc vào bất cứ chỗ nào. Chỉ cần thanh tịnh bản tâm, để cho sáu thức khi tiếp xúc với sáu trần qua sáu căn không bị tạp nhiễm, đến đi tự do, thể dụng không vướng mắc. Đó là Bát nhã tam muội tự tại giải thoát, cũng gọi là hạnh Vô niệm. Nếu trăm việc không nghĩ tới, thì sẽ khiến cho niệm mất. Như thế là pháp bị trói buộc buộc, gọi là thấy một bên.”
Qua cách đặt vấn đề này, Lục tổ cho chúng ta một cái nhìn đặc trưng về Vô niệm, mà ngài sợ rằng mọi người sẽ hiểu lầm về từ Vô niệm này. Vì đứng về mặt tích cực tác động hiện tượng, hình như chúng không có bất cứ một giá trị nào hết ngoài vấn đề phủ nhận. Nhưng đứng về mặt tiêu cực chúng đang hình thành một tác động vượt thoát, mà ở đó chúng đang tác động tối đa cho bước đi tự tại của mỗi chúng ta. Vô niệm ở đây hoàn toàn không có nghĩa là không nghĩ gì hết, mà ngược lại ở đây cái nghĩ luôn luôn vẫn hiện hữu, nhưng không chấp vào bất cứ đối tượng nào trong cũng như ngoài. Cái hiện hữu ở đây tùy duyên, nhưng không trụ vào duyên, vì vậy mà chúng trở thành tự tại trong dòng biến dịch của các pháp. Theo ngài nếu trăm việc không nghĩ tới thì khiến cho niệm mất, như vậy thì chúng rơi vào pháp trói buộc của đoạn diệt, cũng gọi là cái thấy một bên. Trong phẩm thứ hai Bát nhã, Lục tổ viết:
- “Thiện tri thức! Nếu dùng trí tuệ quán chiếu thì sẽ thấu triệt rõ ràng trong ngoài, và tự biết bổn tâm. Khi đã biết bổn tâ thì đó là nền tảng của giải thoát. Nếu đã được giải thoát tức là đã đạt được Bát nhã tam muội, đó là Vô niệm.”
Ở đây, theo Lục tổ thì Bát nhã tam muội chính là Vô niệm, là giải thoát, là mở trói. Từ đó cho chúng ta một cái nhìn căn để hơn về một nền tảng giải thoát, mà ở đó không có bất cứ một sai biệt nào giữa Giới-Định-Tuệ, khi con đường Trung đạo Vô niệm được thể hiện. Vì Giới-Định-Tuệ có được chỉ tùy thuộc vào giá trị nhân quả, trong khi Vô niệm không tùy thuộc vào bất cứ giá trị nhân quả nào. Cho dù trên mặt tướng trạng tạm phân biệt để đánh giá nó một cách tạm thời qua Thể-Tướng-Dụng đi nữa, thì sự đánh giá này vẫn tùy thuộc vào các duyên. Khi các pháp còn lệ thuộc vào nhau để hiện hữu, thì pháp này được giáng xuống hàng giá trị nhân quả trói buộc, chưa phải là giải thoát.
Tóm lại con đường Vô niệm Trung đạo là con đường tóm thâu tất cả mọi con đường trong PHÁP BẢO ĐÀN kinh, qua đó được phân chia thành mười chương. Trong mười chương này Lục tổ có đề cập đến nhiều vấn đề để khế hợp với từng căn cơ hành giả, nhưng trên thực tế chúng vẫn qui về một mối, đó là con đường Trung đạo Vô niệm vượt thoát, được thể hiện trong từng bước đi của mỗi môn nhơn đệ tử xuất gia cũng như tại gia.

Read More
Người đăng: Phổ Đồng on Thứ Năm, 3 tháng 1, 2008
0 nhận xét
categories: | | edit post

nhạc nền

Video - Phim

About Me

Ảnh của tôi
Từ vô thỉ ta luân hồi cát bụi, Vẫn miệt mài bám lấy cõi trần gian; Vẫn hít thở âm thầm yêu cuộc sống, Trần gian ơi nghe cát bụi mơ màn. Theo khát vọng ta trầm luân gót mỏi, Đếm đường dài vết cũ bụi chưa tan; Ngoảnh mặt lại khói sương mờ phong kín, Đường qua đi mất dấu tự phương ngàn. Ta dong ruỗi lạc loài theo nắng sớm, Cùng mưa chiều tan nát mộng dưới chân; Đất khẽ gọi con gió chiều đi vắng, Về tự tình đưa tiễn mộng nghìn năm. Nghe tan vỡ từ vô thường hoa nở, Nắng nghìn năm trưa buồn lạ trong hồn; Chiều ủ rũ qua nắng tàn trăng hiện, Từng giọt vàng rơi cõi đất mông lung. Vẫn hiện thực qua sắc màu biến đổi, Chuyện trăng tàn nhớ bóng ráng chiều phong; Tựa hơi thở buồn vui nào biết nổi, Cả một đời qua sinh diệt thời gian. Chợt một sớm rảnh rang nhìn đất thở, Đá cựa mình nghe dao động không gian; Như hoa đớm hạt nắng vàng ảo hóa, Giọt mong manh từng giọt đẹp vô ngần. Theo duyên hiện hóa thân vào vô tận, Duyên trùng trùng cho đến mãi vô chung.